Các hỗn dược phức tạp về sau được gọi là dược Galen và dấu hiệu “cái đầu của Galen” gắn trên cửa để
cho biết đó là tiệm thuốc. Một số thuốc dạng dược Galen được các bà mệnh phụ La Mã giàu có dùng làm
đồ trang điểm. Unguentum refrigerans là một dạng nhũ dịch gồm có nước pha với dầu hạnh nhân, có
thêm sáp ong và nước thơm hoa hồng, tương tự như loại kem lạnh ngày nay. Ông Hoàng của các thầy
thuốc cũng đưa ra các đơn thuốc khá khó chịu, chẳng hạn như mật con bò mộng, mạng nhện, da rắn lột,
và dầu giúp tiêu hóa chế bằng cao chồn và linh cẩu. Trong một tác phẩm nhỏ Galen có giải thích, là các
thầy thuốc lắm khi phải tham gia phát hiện những kẻ giả vờ ốm để trốn việc, và họ có thể sử dụng đem
các thứ thuốc độc hại để thử trên các nô lệ không muốn làm việc, hay thử trên những công dân và binh sĩ
tìm cách trốn tránh các nghĩa vụ quân sự và chính trị.
Galen cũng xây dựng những quan niệm suy đoán phức tạp về phương thức hoạt động của các chế phẩm y
học và những lý luận hợp lý hóa về tác dụng y học của những thứ bùa chú và chất thải. Ông cũng sử
dụng tốt những câu chuyện về sự phát hiện tình cờ các tính chất chữa bệnh của nhiều thứ chất độc. Lấy
ví dụ, trong quyển ‘Bàn về những thứ đơn giản’, Galen đưa ra một câu chuyện sống động trong đó một
ông lão khốn khổ vì một căn bệnh ngoài da kinh khiếp đã khỏi bệnh sau khi uống một bình rượu nho
trong đó có một con rắn độc chết chìm.
Trong khắp đế quốc La Mã, những người giàu có và quyền thế sống trong sợ hãi bị hạ độc trong bàn tiệc,
còn các nông dân, người lữ hành và binh sĩ thì luôn luôn bị những thứ cây độc và các con vật có nọc độc
đe dọa. Galen chú ý đến các vết cắn của khỉ nhân hình, chó, rắn, nhiều loại thú hoang, và có lẽ con người
nữa (có lẽ khi nhớ tới mẹ mình), tất cả đều được coi là có độc. Vì lúc nào cũng sợ hãi các chất độc và
nọc độc, cho nên phải nghĩ tới việc sáng chế ra các thứ thuốc giải độc kỳ dị. Các công thức giải độc bao
gồm thảo dược, chất khoáng, và các bộ phận hoặc sản phẩm từ động vật chẳng hạn như bột châu chấu
khô và thịt của con rắn lục. Có thể truy tìm nguồn gốc các công thức thuốc giải độc của người La Mã đến
tận thời Mithridates (132-63 trước CN), vua của xứ Pontus vùng Tiểu Á.
Nổi danh nhờ kiến thức về thảo dược, các thứ chất độc và thuốc giải độc, Mithridates đã chứng minh giá
trị của các đơn thuốc của mình khi đem áp dụng trên người. Người ta nói rằng Mithridates đã gởi kèm
một tù nhân bị kết án đi theo để làm vật thí nghiệm khi trao đổi các công thức thuốc giải độc với những
nhà nghiên cứu khác. Nhờ mỗi ngày đều sử dụng một liều lượng thuốc giải độc tốt nhất, cho nên
Mithridates được coi như miễn nhiễm với tất cả các chất độc. Năm 66 trước CN, bị quân La Mã vây
khốn trong pháo đài, Mithridates đã bắt tất cả các bà vợ, nàng hầu và con gái uống thuốc độc nhưng
không có thứ thuốc độc nào giết được Mithridates. Theo Galen, thầy thuốc của Nero là Andromachus đã
sử dụng kiến thức về chất độc của Mithridates để bào chế một thứ thuốc giải tuyệt chiêu, một hỗn hợp
kinh khủng có chứa 64 thành phần, trong đó có thuốc phiện và thịt con rắn lục. Andromachus cho rằng
thuốc giải độc của mình là một thứ rượu bổ đồng thời cũng là một thứ thuốc giải bá độc.
Tài năng và sự trung thực của Galen được các người bảo trợ đánh giá rất cao đến mức ba vị Hoàng đế La
Mã đã tin cẩn giao cho ông bào chế thuốc giải độc cho họ. Do những người khác thường đối mặt với
nguy cơ gặp những sản phẩm chất lượng xấu hoặc giả mạo, cho nên Galen đưa ra ý kiến là những người
mua thuốc nên kiểm chứng công hiệu của các thứ thuốc giải độc bằng cách uống một thứ thuốc gây xổ
nhẹ. Nếu thứ thuốc được gọi là giải độc có thể chặn được tác dụng bình thường của thứ thuốc uống vào,
thì thứ thuốc giải độc đó là thật. Thuốc giải độc chân thực phải được pha chế với các thành phần có chất
lượng tốt nhất. Mặc dù, có thể hoàn tất trong vòng 40 ngày các công việc nghiền, trộn, đun nóng và
khuấy chế phẩm cuối cùng, nhưng những người có thẩm quyền cho rằng nhất thiết phải để thời gian ủ từ