Hildegard vào thế kỷ 20, đã làm cho các học giả, các nhà tranh đấu cho nữ quyền, nhạc sĩ, thầy thuốc sử
dụng thảo dược, thi sĩ và các thầy thuốc vi lượng đồng căn chú ý trở lại tên tuổi của bà.
Là đứa con thứ 10 của một gia đình quý tộc, Hildegard bước vào dòng tu kín khi được 8 tuổi. Bà tuân thủ
lời thề giữ cuộc sống tu hành vào tuổi thiếu niên và được chọn làm tu viện trưởng một tu viện dòng
Benedictine vào năm 1136. Vốn đã thấy được những ảo giác từ khi còn nhỏ, khi được 15 tuổi Hildegard
bắt đầu nhận được các mặc khải về bản chất của vũ trụ và nhân loại. Những ảo giác này được một giọng
nói từ trên trời giải thích cho bà bằng tiếng Latin. Năm 1141, có một tiếng gọi thần thánh ra lệnh cho bà
phải ghi lại và giải thích các ảo giác đã gặp. Khi bắt đầu viết, Hildegard nghĩ rằng mình là người phụ nữ
đầu tiên tiếp cận một nhiệm vụ như vậy. Sau khi được Giáo hoàng điều tra về bản chất của những mặc
khải của bà, Hildegard mới trở thành một người nổi danh thực sự và chính thức được khuyến khích tiếp
tục công việc. Các bậc Giáo Hoàng, vua chúa và học giả đều tìm đến để xin lời khuyên. Vào tuổi 60,
Hildegard dồn hết sức lực chú tâm vào công việc cải cách công việc tu hành và tu viện.
Tác phẩm Physica của Hildegard, Sách về Y học đơn giản hoặc Chín quyển sách về những tinh tế của
nhiều loài sinh vật, có lẽ là quyển sách đầu tiên của một tác giả nữ bàn luận về các yếu tố và tính chất
điều trị của cây cỏ, động vật và kim loại. Đây cũng là quyển sách đầu tiên về lịch sử tự nhiên được soạn
ra ở Đức. Sách cũng bàn nhiều đến các kiến thức y học truyền thống nói về cách sử dụng trong y học
hoặc các độc tính của nhiều loại cây cỏ, động vật có vú, loài bò sát, khoáng chất, ngọc quý và kim loại.
Một công trình chính khác của Hildegard, Sách về Y học tổng hợp, hoặc Nguyên nhân và Cách chữa trị,
bàn về bản chất, hình thể, nguyên nhân và việc điều trị bệnh, sinh lý học và tình dục con người, chiêm
tinh học và nhiều thứ khác. Điều thú vị là hai quyển sách nói về y học lại không nhắc đến sự cảm ứng
thần linh.
Chủ yếu dựa vào thuyết dịch thể truyền thống, Hildegard thường đề cập đến các điều trị đặt trên nguyên
tắc đối nghịch. Thực phẩm, thuốc và đá quý được kê vào đơn thuốc để ngăn ngừa và chữa bệnh. Lấy ví
dụ, ngọc xanh sapphire được khuyến cáo để điều trị bệnh về mắt và làm thuốc giảm dục, cho nên
sapphire trở thành một thứ ngọc phù hợp được dùng trong các tu viện. Các bài thuốc chứa các bộ phận
của những con thú lạ, chẳng hạn như gan kỳ lân và tim sư tử được khuyến cáo dành cho những bệnh
đáng sợ như bệnh hủi.
Khi thăm dò những bệnh tâm thần cũng như bệnh thực thể, Hildegard bàn đến những chứng như chứng
cuồng, mất trí, ám ảnh và ngu độn. Theo bà Hildegard, ngay cả những trạng thái tinh thần kỳ quặc nhất
cũng có nguyên nhân tự nhiên. Vì thế, người ta có thể cho rằng một người đàn ông bị ma ám trong khi
vấn đề thực sự có thể là một cơn nhức đầu, nhức nửa đầu và chóng mặt xảy ra cùng một lúc. Hildegard
có lẽ đã chú ý nhiều đến những chứng bệnh này. Thật vậy, các thám tử y học hiện đại đã chẩn đoán
những cơn ảo giác của bà là những ví dụ kinh điển của chứng nhức nửa đầu.
Phần lớn các thầy thuốc phụ nữ hành nghề y và đỡ đẻ vào thời Trung cổ đều không để lại vết tích gì về
hoạt động của họ trong sách vở cả. Chắc chắn là nguy hiểm cho những ai buộc phải sống ngoài rìa xã hội
khi gây sự chú ý của chính quyền và trực tiếp cạnh tranh với các thầy thuốc có giấy phép hành nghề. Vì
vậy, mặc dù có ít phụ nữ đạt đến trình độ học vấn và ảnh hưởng như bà thánh Hildegard có được một
cách an toàn trong tu viện kín cổng cao tường, nhiều phụ nữ khác thời Trung cổ đã phục vụ với vai trò
điều dưỡng, người chữa bệnh bằng cây cỏ và thầy thuốc trong các bệnh viện và bệnh xá tại châu Âu và
vùng đất Thánh. Một ví dụ, Thánh Walpurga (chết 779) là một công chúa xứ Anh đã từng học ngành y và