thuốc. Nói chung, mặc dù trong các dụng cụ hành nghề có những thứ cốc giác hơi, ông tránh rạch tĩnh
mạch và sử dụng con đỉa để trích huyết. Khi sang Anh để xin một đặc quyền cho thuộc địa Connecticut,
Winthrop được bầu vào Hội Hoàng gia London.
Không phải chỉ có các tu sĩ mới đảm nhiệm vai trò thầy thuốc. Một ví dụ, Benjamin Franklin (1706-
1790), thú nhận rằng ông đã từng kê đơn thuốc và cảm thấy thoải mái khi đưa ra các lời khuyên y học.
Tuy nhiên khi người thân trong gia đình bị bệnh, ông đưa đến thầy thuốc và theo sự chỉ dẫn của người
này. Tuy nhiên ông vẫn cho rằng điều quan trọng đối với những ai tìm đến bác sĩ là phải suy nghĩ cho
chính mình trước thay vì chỉ mù quáng nghe theo lời hướng dẫn của họ. Do số lượng thầy thuốc còn
hiếm và phải trả tiền công khám bệnh, cho nên đa số dân lập nghiệp đều dựa vào các bài thuốc cổ truyền
tại gia hoặc tìm trong các sách niên giám hay cẩm nang y học. Những tài liệu phổ thông như quyển Mỗi
người tự điều trị cho chính mình: hoặc Thầy thuốc cho nông dân nghèo của John Tennet, quyển Thuốc
men sơ khai của John Wesley (1747), quyển Tư vấn sức khỏe cho mọi người của Samuel-Auguste-André-
David Tissot (1761), quyển Mọi người tự làm bác sĩ của Theobald, và Y học tại gia của William Buchan
(1769). Sách Niên giám và báo chí cũng cung cấp các thông tin y học. Dần dần, các thầy thuốc trị bệnh
bằng thảo dược cũng học được tác dụng điều trị của các cây cỏ địa phương và thay thế cho các loại thuốc
nhập khẩu.
Không có nhiều thầy thuốc được đào tạo chính quy, nhưng ngay cả vào thế kỷ 18, họ cũng đòi hỏi những
đặc quyền chuyên nghiệp và tìm cách áp dụng các luật hành nghề y ngặt nghèo. Tuy nhiên, những cố
gắng nhằm hạn chế nghệ thuật chữa bệnh cho một nhóm nhỏ các thầy thuốc ưu tú lại đụng chạm đến các
nguyên tắc bình đẳng đang thịnh hành, và bản thân nó không tác động mấy lên thị trường y khoa của Mỹ.
Bên ngoài các thành phố lớn, tại các thuộc địa cũng như tại nước Anh, những người hành nghề thầy
thuốc và bệnh nhân không đếm xỉa đến những nỗ lực nhằm chuyên nghiệp hóa và kiểm soát việc hành
nghề chữa bệnh. Nhất là các thầy thuốc được đào tạo bài bản than phiền về sự cạnh tranh của đám lang
băm, thầy thuốc gia truyền, và phụ nữ lớn tuổi, nhưng các bệnh nhân tiềm năng của họ thường chọn cái
lý lẽ thông thường thay vì những lý thuyết trừu tượng. Dân lập nghiệp không tin vào những kẻ ngoan cố
khăng khăng cho rằng cứ uyên bác là có địa vị, được kính trọng và được độc quyền trên thị trường y tế.
Ý tưởng cho rằng người thầy thuốc chính hiệu là các quý ông, những người không làm công việc chân
tay, nhưng được nể trọng vì có kiến thức lý thuyết không phù hợp với thực tế nước Mỹ lúc ban sơ.
Ngược lại với thang thứ bậc chặt chẽ vốn là đặc trưng của châu Âu, tại các thuộc địa của Anh, người làm
nghề bán thuốc, phẫu thuật hoặc chữa bệnh đều được gọi là “bác sĩ”. Tại các thuộc địa, phần lớn những
người trở thành bác sĩ đều trải qua thời gian học việc với một thầy thuốc có kinh nghiệm và còn lý thuyết
thì học trong những sách y khoa chuẩn. Các gia đình giàu có có thể gởi con qua châu Âu để học chính
quy ngành y và kinh nghiệm lâm sàng. Một số ít bác sĩ thời thuộc địa đã theo học các trường y khoa tại
châu Âu, nhưng di cư sang Mỹ trước khi hoàn tất việc học hoặc lấy được tấm bằng chính thức.
Phụ nữ có thể được công nhận tài năng chữa bệnh trong các lĩnh vực như chữa bệnh bằng thảo dược, hộ
sinh hoặc điều dưỡng, nhưng họ không được gọi là “bác sĩ”. Tương tự, những người có tài khéo riêng,
như nắn xương hoặc nhổ răng, cũng không được nhận danh hiệu trên. Mặc dù phụ nữ có thể kiếm được
tiền nhờ bán thuốc hoặc chữa bệnh, nhưng phần lớn các hoạt động chữa trị của họ chỉ xoay quanh trong
gia đình, bạn bè hoặc hàng xóm. Hộ sinh thường được thực hiện không chính thức, nhưng một số cộng
đồng bắt chước truyền thống châu Âu ban hành các quy định kiểm soát sự hành nghề của các nữ hộ sinh.
Để bảo vệ trật tự xã hội, năm 1738 thành phố New York ban hành các quy định cấm các nữ hộ sinh