học thuật, nhưng họ cũng đòi quyền được cạnh tranh với các vị trí trong lục quân và hải quân cũng như
có đại diện trong các hội đồng cấp phép và quản lý hành nghề.
Wooster Beach (1794-1868), người sáng lập ra y học chiết trung, không có liên hệ trực tiếp gì với phái
Thomson, nhưng ông ta từng theo học một người chữa bệnh bằng cây cỏ và đã xuất bản một quyển sách
về y học nội trợ. Beach cho rằng mình là một thầy thuốc cây cỏ chuyên nghiệp, bởi vì ông ta đã theo học
một trường y tại New York và có chứng chỉ hành nghề do y tế phân khu cấp. Trong quyển Hành nghề y
khoa tại Mỹ (1833), Beach lập luận rằng việc hành nghề y chính thống “là độc hại và nguy hiểm đến
mức cực đoan”. Trong toàn bộ Dược liệu (materia medica) của y học chính thống chỉ có mấy thứ khoáng
chất đầy chất độc gây hại cho cơ thể con người nhiều hơn là chính căn bệnh mà thầy thuốc kê đơn để
chữa. Ngược lại, học thuyết chiết trung là một trường phái tư tưởng triết học kêu gọi phải cải cách nền y
học. Theo Beach, thì nền y học thực vật mới đặt cơ sở trên “những nguyên tắc chân lý bất di bất dịch và
vĩnh cửu”. Các nguyên tắc của y học chiết trung đã được chứng minh qua thực nghiệm, quan sát và thực
tế rút ra từ thực hành lâm sàng. Các tài liệu do phái chiết trung xuất bản bao gồm các mặt bệnh học, triệu
chứng học, chẩn đoán, tiên lượng và so sánh giữa các phương thuốc được sử dụng bởi các thầy thuốc dị
căn liệu pháp, đồng căn liệu pháp, thủy liệu pháp và chiết trung.
Năm 1830, Beach cùng với đồng nghiệp tổ chức một trường y tại Worthington, Ohio, và cho rằng đây là
trường y thảo dược được đặc cách (nhận ngân sách chính phủ nhưng hoạt động độc lập), có cấp bằng đầu
tiên tại Mỹ. Mặc dù Beach tin rằng trường mới này sẽ đưa ra nền tảng khoa học cho ngành y học cây cỏ,
nhưng ông ta gọi hệ thống điều trị này là “chiết trung” vì lẽ nó thiếu một triết lý y học độc đáo. Vào thời
điểm trường đóng cửa năm 1839 do một vụ náo loạn khi mổ xác, có đến 100 thầy thuốc chiết trung đã tốt
nghiệp. Viện Y học chiết trung tại Cincinnati, Ohio, được đặc cách thành lập năm 1845, là trường y khoa
chiết trung quan trọng nhất và thành công nhất. Đến năm 1892 có đến 10 trường y khoa chiết trung.
Chương trình các môn học của các trường y khoa chiết trung về cơ bản tương tự như các trường y chính
thống. Giáo trình gồm có giải phẫu học, bệnh lý học, dược liệu, phẫu thuật và sản khoa. Mặc dù có một
vài chống đối, nhưng các trường y khoa chiết trung sẵn sàng nhận các sinh viên nữ hơn là các trường y
khoa chính quy. Như tên gọi, các thầy thuốc chiết trung chấp nhận một cách tiếp cận mềm dẻo đối với
điều trị học mặc dù họ nhấn mạnh nhiều hơn đến các phương thuốc lấy từ cây cỏ tự nhiên và những dạng
mới các thứ thuốc tạm gọi là làm cô đặc, và nhất quyết không chấp nhận việc trích huyết. Các thầy thuốc
chiết trung khá thành công khi cạnh tranh với thầy thuốc phái y lý và phái Thomson, nhưng vẫn chỉ là
một phái nhỏ so với y học chính quy và đồng căn liệu pháp. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 20, Hiệp hội Y
học chiết trung Quốc gia của Mỹ có chi nhánh tại 32 tiểu bang. John M. Scudder (1829-1894), giáo sư tại
Viện Y học Chiết trung, John Uri Lloyd (1849-1936), và nhiều người khác có ý đồ nâng cao vị thế của Y
học chiết trung qua việc xuất bản các sách giáo khoa và các tạp chí chuyên nghiệp, phát triển nhiều
phương thuốc mới, và nâng cao việc chuẩn hóa các thứ thuốc chiết trung. Các nỗ lực của họ đều thất bại
và Viện Y học chiết trung, là trường y chiết trung cuối cùng bị đóng cửa vào năm 1939. Tuy nhiên, thư
viện Lloyd do John Uri Lloyd và anh em thành lập, vẫn giữ được những bộ sách có giá trị về dược học
thực vật (phytopharmacy) cùng với lịch sử của môn này. Tuy phái y học chiết trung không còn, nhưng
Lloyd vẫn là một dược sĩ và là một nhà sản xuất dược phẩm rất thành công. Lloyd giữ chức Chủ tịch
Hiệp hội Dược khoa Mỹ và được coi là người có công vận động thông qua Đạo luật quốc gia về thuốc và
thực phẩm tinh khiết năm 1906. Là một tác giả sung sức viết nhiều tác phẩm tiểu thuyết và không phải
tiểu thuyết, những sách Lloyd viết gồm có Chuyên luận mang tính hệ thống về Dược liệu và Điều trị,