tiếp cận phòng thí nghiệm, X quang và các cơ sở bệnh viện. Năm 1987, một thẩm phán liên bang phán
rằng AMA đã tham gia một vụ việc tẩy chay bất hợp pháp.
Các thầy thuốc chỉnh nắn cột sống cho rằng quyết định trên là một thắng lợi cho việc điều trị bằng
chỉnh nắn cột sống, nhưng vụ án được quyết định chủ yếu là để làm rõ chứng cứ là AMA đã tìm cách
loại bỏ không cho phép ngành chỉnh nắn cột sống được cạnh tranh trong hệ thống chăm sóc sức khỏe. Vì
vậy, AMA phạm tội là đã tham gia “công khai lẫn lén lút” trong âm mưu nhằm “ngăn chặn và loại bỏ
ngành nghề chỉnh nắn cột sống”, tức là vi phạm Đạo luật chống độc quyền Sherman. Quan tòa đưa ra
một lệnh cấm vĩnh viễn buộc AMA không được có những hành vi như thế trong tương lai. Ngoài ra,
AMA bị buộc phải công bố quyết định của quan tòa trên tờ báo của hội AMA. Trong thập niên 1990,
AMA đã có nhiều lần tìm cách hủy bỏ lệnh này nhưng không thành công. Tiếp tục đưa phương thức
tranh tụng này vào thế kỷ 21, các hiệp hội chỉnh nắn cột sống nộp đơn kiện tổ chức Chữ thập xanh và
Chiếc khiên xanh (các công ty bảo hiểm y tế) vì đã phân biệt đối xử đối với các thầy thuốc chỉnh nắn cột
sống khi giới hạn khoản tiền thanh toán dành cho các thủ thuật chỉnh nắn cột sống. Khi nộp đơn kiện các
công ty bảo hiểm y tế, các vị thầy thuốc chỉnh nắn cột sống đòi hỏi “một sân đấu ngang bằng” với các
bác sĩ y khoa và thầy thuốc nắn xương.
Y HỌC THAY THẾ, BỔ SUNG VÀ KẾT HỢP
Những thách thức đặt ra từ các phong trào cải cách y tế đại chúng và các chi phái y học là vài trong số
các yếu tố buộc các thầy thuốc chính quy rốt cuộc phải đi tìm hiểu các hệ thống trị liệu của các đối thủ
cạnh tranh. Dù rằng khoa học thế kỷ 19 đã đem lại các phương tiện tiến bộ hơn để chẩn đoán và giải
thích cơ chế của bệnh thông qua thuyết bệnh là do vi trùng, bệnh lý học tế bào, và sinh lý học, nhưng
phạm vi của y học điều trị vẫn còn hạn chế. Các bác sĩ dần dần từ bỏ calomel, trích huyết và thụt tháo, và
quay sang nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, các thử nghiệm thử thuốc trên lâm sàng có đối chứng và
việc đào tạo y học nghiêm ngặt hơn để chứng minh tính vượt trội của y học chính thống. Khi ngành y cải
thiện được hình ảnh và quyền lực của mình, cũng như tính hiệu quả của các chế độ trị liệu và tính an toàn
trong các ca mổ, các bác sĩ tin tưởng rằng rồi sau này những thách đố của các thầy thuốc không chính
thống và hệ thống của họ sẽ không còn nữa.
Mãi đến tận những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, các sử gia và các nhà khoa học xã hội chuyên về
ngành y, cũng như những nhà phân tích chính trị đều cho rằng tình trạng chia thành chi phái trong y học,
những thầy chữa bệnh không chính thống, và những cách chữa bệnh truyền thống hoặc dân gian sẽ biến
dần đi khi nền y học hiện đại, khoa học càng ngày càng trở nên hiệu quả và thế lực hơn. Những thầy
thuốc không chính thống, dù rằng đó là những người cổ súy cho các học thuyết y học cổ lỗ hoặc là các
nhà lãnh đạo của các giáo phái tân thời, dường như không liên quan mấy đến thị trường y tế, ngoại trừ đó
là những nơi tung ra các giai thoại đầy màu sắc. Nhưng rồi cộng đồng y tế sững sờ khi biết được rằng
trong thập niên 1990 có trên 30 phần trăm người Mỹ đã sử dụng một dạng y học thay thế nào đó, tạo nên
một thị trường nhiều tỷ đô-la. Những nghiên cứu sâu hơn cho thấy công chúng quan tâm nhiều và sử
dụng y học thay thế có chiều hướng ngày càng tăng chứ không phải giảm đi.
Một nghiên cứu lớn thực hiện vào đầu thế kỷ 21 cho thấy trên 40% người Mỹ đã từng hoặc đang sử dụng
một hình thức y học thay thế nào đó; khoảng 75% tin vào khả năng chữa bệnh khi cầu nguyện và 85% tin
rằng một số thực phẩm có thể chữa được bệnh hoặc làm tăng sức khỏe. Cuộc khảo sát bao gồm những