LỊCH SỬ Y HỌC - Trang 356

xét về mặt thống kê. Tuy nhiên, phụ nữ chọn cách sinh con tại bệnh viện vì mong muốn nhận được sự
thành thạo chuyên môn, kỹ thuật mới, không đau và mức an toàn cao hơn cho mẹ lẫn con.

Từ khi các bác sĩ dành được độc quyền trên “bàn tay sắt” và “liều thuốc gây quên lãng”, thì người hộ

sinh trở thành một loài bị đe dọa. Khác với những người chỉnh nắn cột sống (chiropractors), đo khúc xạ
mắt, chữa bệnh ở chân (podiatrists), và nha sĩ, thì người hộ sinh không bao giờ có cơ hội mang danh hiệu
“bác sĩ”. Trong những thập niên 1960 và 1970, mối quan tâm đến các phương thức tự nhiên trong việc
chăm sóc sức khỏe và Phong trào đòi nữ quyền đã lên tiếng kêu gọi nên quay lại “kiểu sinh đẻ lấy phụ nữ
làm trung tâm”, nhưng do xu hướng y khoa hóa việc sinh đẻ trở nên quá mạnh đến mức trong thập niên
1980, trên

25% trong số trẻ chào đời tại một số bệnh viện của Mỹ là do mổ lấy thai.

Trong chiều hướng này, lịch sử của sốt hậu sản và ngành hộ sinh rõ ràng chỉ là một phần của sự biến đổi
phức tạp trong đó có những thay đổi về mô hình cơ sở y tế, vai trò nghề nghiệp, những ước vọng xã hội
và các tín niệm về bản chất của phụ nữ. Người hộ sinh nam chỉ là một phẫu thuật viên thấp hèn khi xâm
nhập vào thế giới sinh đẻ riêng của phụ nữ, nhưng sau đó đã biến cải việc sinh đẻ thành một phẫu thuật
trong môi trường bệnh viện do bác sĩ thống lãnh, và tạo dựng những chuyên môn được đánh giá cao cho
các bác sĩ sản khoa và phụ khoa.

Việc sử dụng ngày càng nhiều kỹ thuật gây mê/gây tê - ether hoặc chloroform vào nửa cuối thế kỷ 19 và
Twilight Sleep - một hỗn hợp morphine-scopolamine vào các thập niên đầu của thế kỷ 20 - cũng đã giúp
nâng cao vị thế của bác sĩ sản khoa. Phụ nữ biết rằng chỉ tại bệnh viện có bác sĩ sản khoa lành nghề mới
thực hiện được đẻ không đau. Twilight Sleep thường đi kèm với “phẫu thuật forceps dự phòng”, cắt tầng
sinh môn và các can thiệp phẫu thuật thường xuyên khác. Cắt tầng sinh môn được đưa vào thực hành sản
khoa trong thập niên 1920, được coi như là một cách ngăn ngừa không gây rách rộng vùng đáy chậu
(perineum) khi tống thai, nhưng tác dụng chính có lẽ là để giúp cho việc đặt forceps dễ dàng hơn và thai
tống ra nhanh hơn. Tuy nhiên, khoảng thập niên 1980, các nhà nghiên cứu bắt đầu ghi nhận là các nguy
cơ liên quan đến việc cắt tầng sinh môn cao hơn nhiều so với những lợi thế gán cho nó. Những hình thức
phẫu thuật khác trên các cơ quan sinh dục phụ nữ cũng rất phổ biến vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Phẫu thuật kiểu này được gọi là “cắt buồng trứng bình thường” bởi vì được thực hiện trên các buồng
trứng hoàn toàn lành lặn. Các bác sĩ phụ khoa cho rằng loại phẫu thuật này có thể điều chỉnh hành vi của
phụ nữ nào có các dấu hiệu mất trí, suy nhược thần kinh, tâm thần bất định, kinh nguyệt không đều, và
nhiều thứ khác. Thủ thuật cắt bỏ âm vật cũng nhằm các lý do tương tự.

Những người công kích việc “y khoa hóa quá mức cuộc sống hiện đại” lại cảnh báo những mối nguy
hiểm khi xử lý các chức năng bình thường của phụ nữ, trong đó có thai kỳ và mãn kinh, như các tình
trạng bệnh lý. Lấy ví dụ, từ thập niên 1960, một số bác sĩ phụ khoa cho rằng mãn kinh là một bệnh thiếu
estrogen và cần phải áp dụng liệu pháp thay thế estrogen để ngăn ngừa tình trạng mất nữ tính
(defeminization), tăng huyết áp, tăng cholesterol, loãng xương, viêm khớp và những rối loạn cảm xúc
nghiêm trọng. Mặc dù có nhiều luận điệu cho rằng liệu pháp thay thế hormone (HRT) hoàn toàn an toàn,
nhưng đến năm 1975, các nhà nghiên cứu đã có bằng chứng về mối liên hệ giữa liệu pháp estrogen sau
khi mãn kinh và ung thư nội mạc tử cung. Những báo cáo khác về tổn thương do dụng cụ y tế và thuốc
theo đơn bác sĩ đã củng cố thêm sự công kích của các nhà hoạt động nữ quyền về sự can thiệp y học trên
phụ nữ. Việc lạm dụng chất diethylstilbestrol (DES), một loại estrogen tổng hợp được sản xuất lần đầu

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.