LỊCH SỬ Y HỌC - Trang 358

động “dưới sự chỉ đạo của bác sĩ”. Mặc dù các nghiên cứu thống kê nhiều lần đã chứng minh rằng khi
điều dưỡng-hộ sinh chăm sóc cho phụ nữ có thai, thì tần suất trẻ sinh thiếu tháng và thiếu cân thấp hơn,
nhưng cộng đồng y học vẫn dửng dưng hoặc thậm chí còn chống đối các điều dưỡng-hộ sinh. Hiệp hội
điều dưỡng Mỹ và Liên đoàn Điều dưỡng quốc gia cũng giữ thái độ mập mờ đối với ngành điều dưỡng-
hộ sinh. Liên minh các hộ sinh Bắc Mỹ, được thành lập năm 1982, cho rằng ngành hộ sinh cũng không
nhất thiết phải có bộ môn điều dưỡng.

Ngành hộ sinh bắt đầu được quan tâm trở lại trong thập niên 1970 khi một số phụ nữ muốn tránh các kỹ
thuật y học quá thô bạo như sinh con chỉ huy, gây tê ngoài màng cứng, cắt tầng sinh môn và mổ lấy thai.
Những phụ nữ nào băn khoăn về vấn đề thiếu quan tâm đến tính con người (impersonalíty) và tính quá
dựa vào y học khi sinh con tại các bệnh viện đã bắt đầu xem việc sinh con tại nhà có nữ hộ sinh giúp đỡ
là một phương án thay thế. Vào năm 2000, tiểu bang nào ở Mỹ cũng cho phép các điều dưỡng-nữ hộ sinh
hành nghề, tuy nhiên, luật của mỗi tiểu bang liên quan đến các nữ hộ sinh không có chứng chỉ và việc
sinh con tại nhà lại rất khác nhau. Theo Trung tâm Thống kê y tế quốc gia, năm 1976, thì các điều
dưỡng-hộ sinh có chứng chỉ chỉ đỡ đẻ cho 1% các trường hợp sinh tại Mỹ. Năm 2002, các điều dưỡng-hộ
sinh giải quyết khoảng 8% các trường hợp sinh, nhưng ngành hộ sinh lại thoái trào năm 2004. Tại thành
phố New York, các điều dưỡng-hộ sinh đỡ đẻ cho khoảng 12% các ca sinh năm 1997, nhưng đến năm
2002, con số này tụt xuống còn 9,7%, theo số liệu của Sở Y tế và Vệ sinh tâm thần của thành phố.

Nói chung, các nữ hộ sinh, bác sĩ, viên chức bệnh viện và bệnh nhân đều cho rằng sự suy giảm sử dụng
các dịch vụ của hộ sinh là do những vấn đề bảo hiểm và sợ bị kiện tụng. Phí bảo hiểm sơ suất nghề
nghiệp dành cho hộ sinh tăng nhiều lần hơn so với các bác sĩ sản khoa. Chỉ có 2 trong số 4 trung tâm
sinh đẻ độc lập do các hộ sinh điều hành tại New York City năm 2002 là còn hoạt động đến năm sau.
Những bệnh viện có trung tâm sinh đẻ, để lôi cuốn bệnh nhân, đã cơ cấu nhân viên là hộ sinh, nhưng
đồng thời cũng khoanh vùng công việc của họ lại bằng cách đưa nhiều bệnh nhân vào nhóm “nguy cơ
cao”.

Ngay cả đến thế kỷ 21, tại những nơi còn hạn chế không cho phụ nữ tiếp cận sự chăm sóc y tế và giáo

dục, thì tỷ lệ tử vong mẹ và nhũ nhi có thể xấp xỉ những con số trước thời hiện đại. Những nghiên cứu tại
Afghanistan cho thấy tỷ lệ tử vong mẹ và nhũ nhi còn cao rất nhiều. Hàng triệu phụ nữ các miền quê
Afghanistan suốt đời xoay quanh việc có thai - đẻ con nhưng chưa hề biết đến sự chăm sóc y tế, mà nếu
có, cũng rất ít. Một nghiên cứu do Tổ chức Y tế thế giới thực hiện năm 2001 ước tính rằng có trên 2.000
ca mẹ chết trên 100.000 ca sinh sống. Trẻ sơ sinh bị chết mẹ trong khi sinh chỉ có một phần tư cơ hội
sống sót cho đến sinh nhật lần thứ 1. Khoảng một nửa số ca tử vong của phụ nữ Afghanistan trong độ
tuổi sinh đẻ là do các biến chứng trong thời kỳ mang thai hoặc do trong khi sinh con. Các nhà nghiên cứu
cho rằng khoảng 90% các trường hợp chết mẹ đều có thể ngăn ngừa được nếu được chăm sóc tốt hơn.

SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂ N CỦA NGƯỜI ĐIỀU DƯỠNG

Người ta thường nói mỗi phụ nữ là một người điều dưỡng. Sau khi ngành điều dưỡng chấp nhận mô hình Nightingale, thì có thể nói “mỗi

điều dưỡng là một phụ nữ*”. Ngành điều dưỡng, dù trong phòng bệnh hoặc trong một khoa của bệnh viện, được coi là một phần của thiên

chức phụ nữ. Khi chấp nhận nhiều khía cạnh của sự phân chia truyền thống giữa vai trò của nam và nữ, Flor ence Nightingale (1820-1910)

và các nhà cải cách ngành điều dưỡng đã cố gắng chuyển đổi ngành điều dưỡng từ một dạng lao dịch dành cho người không có chuyên môn

thành một ngành chuyên môn phù hợp với phụ nữ trung lưu có học. Trước khi Nightingale tham gia ngành điều dưỡng, các nữ tu - các xơ

chăm sóc người ốm- là những người tham gia hình thành ngành điều dưỡng và sự ra đời của các bệnh viện. Vì thế, tuy Nightingale không

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.