khai sinh ra ngành điều dưỡng, nhưng chắc chắn bà ta là một khuôn mặt chủ đạo trong việc cải tạo hình ảnh và việc đào tạo cho người điều
dưỡng hiện đại.
Không hề cường điệu, Nightingale thường cho rằng thuốc men chưa chắc đã đem lại lợi ích, nhưng giá
trị của việc chăm sóc điều dưỡng tốt thì khỏi cần phải bàn cãi. Các điều dưỡng được huấn luyện kỹ của
Nightingale
* Tiếng Anh nurse: điều dưỡng dành cho nữ; nam giới làm cùng công việc gọi là orderly.
đã hết sức chú trọng đến sự sạch sẽ trong bệnh phòng, thậm chí còn trước cả lúc các phẫu thuật viên thừa
nhận khử trùng và vô khuẩn. Mặc dù công việc do điều dưỡng đảm đương đã thay đổi nhiều kể từ thời
đại Nightingale, nhưng những nghiên cứu thực hiện trong thập niên 1990 đã xác nhận lời phát biểu của
Nightingale. Những bệnh nhân được điều trị tại các bệnh viện có tỷ lệ điều dưỡng cao sẽ có tỷ lệ biến
chứng thấp hơn và ra viện sớm hơn bệnh nhân tại các bệnh viện có số lượng điều dưỡng thấp. Thời gian
nằm viện dài sẽ làm tăng tỷ lệ biến chứng như nhiễm trùng đường tiểu, viêm phổi, xuất huyết tiêu hóa,
choáng, ngưng tim và tử vong nếu không được can thiệp nhanh chóng. Hiệp hội Điều dưỡng của Mỹ
nhấn mạnh rằng chỉ có cách duy trì số lượng điều dưỡng đúng mức mới bảo đảm chăm sóc tốt cho bệnh
nhân.
Năm 1921, khi các nhà quản lý bệnh viện ở Mỹ cử hành Ngày Bệnh viện nước Mỹ, họ đã chọn ngày 12
tháng 5, ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày hội như một cách thừa nhận sự phát triển song
hành của bệnh viện hiện đại và người điều dưỡng được đào tạo. Tại Mỹ, những nỗ lực thành lập các
trường điều dưỡng đều đi từ tấm gương Florence Nightingale và các kinh nghiệm của Cuộc nội chiến.
Rất lâu trước khi bệnh viện đảm nhận vai trò đào tạo bác sĩ, các nhà quản lý bệnh viện đã nhận thấy rằng
cũng nên thành lập ra trường đào tạo điều dưỡng. Số lượng các trường đào tạo điều dưỡng tại Mỹ tăng
lên nhanh sau khi có những trường loại này được thành lập trong thập niên 1870. Đến năm 1930, trên
2.000 bệnh viện có biên chế là điều dưỡng và có dịch vụ đào tạo điều dưỡng. Khi con số các trường điều
dưỡng tăng lên, sự cạnh tranh để tìm vị trí trong bệnh viện đã làm giảm đi các ước vọng nghề nghiệp của
tất cả các điều dưỡng lành nghề. Theo mô hình Nightingale, các nhà cải cách ngành điều dưỡng sơ khai
đã hy vọng tuyển được các học trò từ tầng lớp “ưu tú”, những người coi ngành điều dưỡng như là một
nghề nghiệp đặc biệt. Tuy nhiên khi số lượng các trường điều dưỡng tăng lên, tính chọn lọc giảm dần và
người điều dưỡng được coi chỉ là những công nhân đáng tin cậy, làm được việc; những người được coi là
cấp dưới và phục tùng các bác sĩ. Trong khi cố gắng xây dựng một giáo trình chuẩn cho các trường điều
dưỡng, thì các nhà lãnh đạo ngành điều dưỡng cũng tranh đấu để đưa ra một bản sắc nghề nghiệp cho các
điều dưỡng lành nghề. Rất ý thức là trên thực tế từ “điều dưỡng” được sử dụng bừa bãi, các hiệp hội điều
dưỡng vận động đưa ra những luật cấp phép hành nghề phân biệt giữa điều dưỡng lành nghề và điều
dưỡng không qua đào tạo. Đến thế chiến thứ 2, ngành điều dưỡng về cơ bản đã đi vào quy chế hiện đại
khi các điều dưỡng tốt nghiệp thế chỗ cho các điều dưỡng học việc trong các phòng bệnh.
Mary Adelaide Nutting (1858-1948) và Lavinia Lloyd Dock (18581956), là những nhà cải cách và giảng
dạy của ngành điều dưỡng, nhấn mạnh rằng nghĩa vụ chính của điều dưỡng là người bệnh, chứ không
phải là bác sĩ và thúc dục các điều dưỡng phải nắm chắc nghề nghiệp của mình. Là những người ủng hộ
một thế giới quan tiến bộ, Dock và Nutting cho rằng việc mình đang làm là một phần của sứ mạng phụ
nữ để hoàn thành việc cải cách và tiến bộ xã hội. Ngoài việc dạy học và viết lách, Dock thể hiện sự cam
kết đối với các cải cách xã hội và các vấn đề y tế công cộng qua thành quả của mình trong phong trào
xây dựng nhà ở cho người nghèo. Dock làm việc với đồng nghiệp là Lillian Wald (18671940) với vai trò