Medical and Surgical Jour nal. Về mặt kỹ thuật, Long đã khẳng định được tác quyền, nhưng như William
Osier đã nói: “Trong khoa học sự vẻ vang dành cho người thuyết phục được thế giới, không phải cho
người đầu tiên đưa ra ý tưởng.”
Mặc dù có những lời cảnh báo từ cơ quan Philadelphia Medical Examiner là các thầy thuốc tại Boston
chẳng bao lâu nữa sẽ làm việc với bọn lang băm, kỹ thuật gây mê/gây tê bằng ether nhanh chóng lan
rộng từ Massachusetts đến Paris và London. Mặc dù gây mê/gây tê chắc chắn là một yếu tố quan trọng
trong cuộc cách mạng phẫu thuật, nhưng cũng còn có sự tham gia của nhiều yếu tố phức tạp và tinh vi
khác nữa. Thật vậy, căn cứ trên việc sử dụng dao mổ ngày càng tăng song song với sự suy tàn của học
thuyết thể dịch và sự phát triển mạnh của môn giải phẫu bệnh học trong giai đoạn từ 1700 đến thập niên
1830, kỹ thuật gây mê/ gây tê được chấp nhận nhanh chóng có thể là do vai trò phẫu thuật càng ngày
càng lớn thay vì điều ngược lại. Rõ ràng là các tác nhân gây mê/gây tê có khả năng đưa vào sử dụng đã
có từ trước thập niên 1840. Dù vậy, khi những tiến bộ trong kỹ thuật gây mê/gây tê ngoại khoa phát triển
nhanh chóng, thì các tai biến do sử dụng và tử vong cũng là điều không thể tránh khỏi. Gây mê/gây tê đã
chuyển biến ngành phẫu thuật rất nhiều đến mức Henry J. Bigelow phải thúc giục cải tổ chương trình
đào tạo của trường Y Harvard để giáo dục cho các sinh viên y khoa nên có lòng nhân hậu và nhạy cảm
với cái đau của bệnh nhân. Trong vòng hai năm sau lần trình diễn công khai đầu tiên của Morton về kỹ
thuật gây mê/gây tê xông hơi, ether, nitrous oxide, chloroform và các chất gây mê/gây tê khác đã được sử
dụng rộng rãi trong nha khoa, sản khoa và phẫu thuật. Các thầy thuốc cũng kê đơn những thứ thuốc gây
mê/gây tê mạnh này để điều trị các chứng co giật, hen suyễn, ho gà, đau bụng kinh, đau do co thắt âm
đạo, đau rễ thần kinh, mất ngủ và loạn thần.
Phấn khởi vì sử dụng thành công chất ether, James Young Simpson (1811-1879), giáo sư môn hộ sinh tại
Đại học Edinburgh và là một trong những nhà phẫu thuật và sản khoa hàng đầu của Scotland, bắt đầu tìm
kiếm một chất gây mê/gây tê không có những bất lợi của ether. Lấy bản thân của mình và bạn bè làm vật
thí nghiệm, Simpson bắt đầu tìm kiếm một cách có hệ thống nhưng nguy hiểm một chất gây mê/gây tê
bốc hơi có mùi thơm hơn, tác dụng nhanh hơn ether. Sau khi hỏi ý kiến các nhà hóa học và lần lượt ngửi
acetone, benzoin và nhiều dung môi hữu cơ khác, Simpson chọn chloroform. Thứ chất lỏng đặc không
màu này làm cho bệnh nhân hào hứng cũng như mất ý thức. Trong vòng một tuần, các bệnh nhân của
Simpson tận hưởng những lợi ích của kỹ thuật gây mê/ gây tê với Chloroform. Chloroform dễ sử dụng
hơn ether, nhưng dường như nguy hiểm hơn. Thật vậy, may là người ta đã xây dựng nguyên tắc gây
mê/gây tê phẫu thuật với ether, nếu không tỷ lệ tử vong tương đối cao của chloroform có thể kìm hãm sự
phát triển nhánh này của nghệ thuật chữa bệnh. Khi nhấn mạnh đến những mặt xấu khi sử dụng ether,
Simpson ghi nhận rằng chất khí này kích thích đường hô hấp và dễ cháy, cho nên sẽ rất nguy hiểm cho ai
mổ dưới ánh đèn cầy. Năm 1868, các nhà hóa học tìm ra chloral hydrate, chất này được sử dụng để tổng
hợp chloroform, và cũng là một chất gây ngủ. Tuy nhiên, thay vì phóng thích ra chloroform, chloral
hydrate lại tạo thành chất trichloroethanol trong gan. Các nhà hóa học đã tổng hợp nhiều chất tương tự
như chloral hydrate nhưng hữu dụng hơn, trong các thập niên 1870 và 1880.
Tính an toàn của kỹ thuật gây mê/gây tê không phải là điểm tranh cãi duy nhất, qua sự công kích ác liệt
về việc sử dụng thuốc gây mê/gây tê trong sản khoa. Giới tu sĩ, bác sĩ và một loạt các nhà đạo đức tài tử
đều cho rằng sự đau đớn là do Chúa ban, và vì thế nó có vai trò thiêng liêng trong cuộc sống con người,
nhất là cuộc sống của phụ nữ. Nữ hộ sinh bị tội chết vì tội báng bổ, đầy tội lỗi khi muốn làm ngược với
tự nhiên, muốn làm giảm cái đau của phụ nữ khi sinh con. Giới tăng lữ tố cáo Simpson và buộc phụ nữ