phần trách nhiệm. Coolidge thuê thêm một người trông coi bảo tàng
nữa, W. Douglas Burden, làm người thu thập bằng chứng chính cho dự
án. Burden là chuyên gia về rồng Komodo, ông này đã viết hẳn một
quyển sách về loài rồng Komodo nhưng, cũng như bạn mình, biết rất ít
về cá mập.
Để tìm người có hiểu biết thực tế về cá mập, OSS nhắm đến một
người từng bỏ dở đại học có tên Steward Springer, người từng làm đủ
nghề từ buôn cá rồi kỹ thuật viên hóa chất tại Nhà máy Xử lý chất thải
bằng bùn hoạt tính ở Indianapolis. Năm 1942, nước Mỹ không có
chuyên gia nào nghiên cứu về tập tính và đặc tính sinh học của cá mập
cả. Không có ai hiểu biết nhiều về loài sinh vật này. Thực ra, kinh
nghiệm đối diện trực tiếp với cá mập cùng với hiểu biết về tính chất
hóa học của bùn là nền tảng lý tưởng cho nhiệm vụ. “Tiến sĩ”
Springer, theo cách gọi của một số nhân viên OSS khi nhắc về ông, là
sự lựa chọn tốt nhất khi ấy.
Hải quân Mỹ đã đồng ý cấp vốn, dù rằng, một sĩ quan cao cấp cho
hay, ở thời điểm đó chưa có người nào từng đọc lời thề Hải quân báo
cáo chính thức lên cấp trên rằng mình bị lũ cá mập tấn công. Thứ Hải
quân Mỹ quan tâm là sự tự tin của lính. Nỗi sợ cá mập, tuy phi lý, đã
làm giảm số lượng phi công dám tự nguyện cất cánh. Stewart Springer
chỉ ra nghịch lý nực cười đó: “Ai đó sẽ rất sẵn lòng hy sinh cho tổ
quốc, nhưng bị ăn thịt vì tổ quốc lại là chuyện hoàn toàn khác.” Theo
cách gọi của Douglas Burden, thuốc đuổi cá mập chỉ là một dạng
“thuốc hồng” - liều thuốc tâm lý cho những phi công còn e sợ cá mập.
Vào ngày 3 tháng Bảy năm 1942, Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển
Khoa học của OSS đã được cấp kinh phí cho Dự án 374, Hợp đồng
OEMcmr-184: một cuộc điều tra trong ba tháng để “tập trung phát
triển các phương tiện bảo vệ chống lại cá mập; cá nhồng và sứa
cho
những người đeo phao cứu sinh trôi dạt trên biển.” (Trong ba trăm
trang tài liệu lưu trữ về Dự án 374, tôi chỉ thấy hai lần thông tin liên