thở gấp nặng nề của họ. Hơi thở còn chưa kịp điều hòa, Quỷ Nhãn Tam đã
bật dậy, “keng” một tiếng tung ra một bàn tay nối liền với sợi xích, giật
mạnh, kéo đổ nốt hai ngọn đèn còn lại.
Ánh sáng vụt tắt, chỉ còn một màn tối bao trùm.
Lỗ Nhất Khí chưa kịp thò tay vào túi vải lôi hòn đá huỳnh quang Ba Tư
ra, đã thấy trên tay Lỗ Thịnh Hiếu sáng lên một ngọn đèn “khí tử phong”*.
Cậu bèn thả lại viên đá đã nắm trong tay vào trong túi, tiện tay lắp đầy đạn
vào hộp đạn ổ xoay.
* Có nghĩa là “gió tức chết”, là một loại đèn dầu thời cổ đại, được sử
dụng sớm nhất trong quân đội, chiếu sáng ổn định, gió thổi cũng không tắt,
nên mới có tên gọi này.
Quỷ Nhãn Tam lấy tay vê vê ít dầu trong đĩa đèn, lại đưa lên mũi ngửi,
rồi nói gọn lỏn:
- Mỡ lợn thiêng vùng Hoa Cốc, Vân Nam.
- Tranh thuỷ ngân Nam Từ! – Lỗ Thịnh Hiếu vừa thở hổn hển vừa buông
ra một câu.
Chỉ hai câu nói ngắn ngủi vẻn vẹn hơn mười chữ, song không biết đã
chứa đựng bao nhiêu nguy hiểm. Suýt chút nữa họ đã bỏ mạng chỉ vì hai
thứ đó, có lẽ họ vừa mới cách cái chết chỉ trong gang tấc.
Lỗ Thịnh Hiếu đưa tay quệt mồ hôi túa ra trên mặt, nói tiếp:
- Nguy hiểm quá, không biết đối thủ kiếm đâu ra những thứ quái quỷ kia
để làm ra một khảm diện như thế này!
- May mà có cậu ta! – Quỷ Nhãn Tam nói, đương nhiên là chỉ Lỗ Nhất
Khí.
- May mà có chú ấy! – Lỗ Nhất Khí nói, đương nhiên là chỉ lão mù.
Mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía lão mù, lão đằng hắng khẽ một
tiếng rồi giải thích: