tạo cho họ lợi thế cạnh tranh. Họ đề xuất và ủng hộ những chính
sách không thực sự có ích cho lợi ích dài hạn của họ. Những hành
động như trì hoãn thay đổi, chậm chạp đổi mới đã tước mất của các
doanh nghiệp những lợi ích từ quá trình tổ hợp hóa và đi chệch
khỏi những hướng đi cần thiết để có lợi thế cạnh tranh. Trì hoãn
thay đổi chỉ có ý nghĩa nếu thị trường nội địa tiếp tục được bảo hộ.
Điều này lại làm trì hoãn thay đổi thêm nữa và gây thiệt hại cho
người tiêu dùng trong nước cũng như các ngành dựa vào ngành
được bảo hộ.
Có hai bài học lớn cho chính sách của chính phủ. Thứ nhất,
các doanh nghiệp (và công đoàn) sẽ không thay đổi nếu họ tin rằng
sự “trợ giúp” của chính phủ sẽ cho phép họ né tránh làm điều đó.
Sự giúp đỡ trực tiếp của chính phủ với một doanh nghiệp hay một
ngành cũng có xu hướng tạo ra động lực để làm cho sự giúp đỡ này
lan rộng và nhân lên. Thứ hai, lựa chọn chỉ những chính sách làm
hài lòng các doanh nghiệp trong nước có thể có tác dụng ngược.
Các quan chức chính phủ phải thông cảm với những lo lắng và rủi
ro chính đáng mà ngành công nghiệp phải đối mặt. Nhưng lựa
chọn những chính sách dựa trên sự đồng thuận của các doanh
nghiệp hay sự ủng hộ của công đoàn, điều mà các nhà chính trị
chịu áp lực ngắn hạn về tái bầu cử hay tái bổ nhiệm hay làm, có thể
cũng có hại chẳng kém có lợi
.
CHÍNH SÁCH CHÍNH PHỦ VÀ LỢI THẾ QUỐC GIA
Có nhiều chính sách chính phủ có liên quan, theo cách nào đó,
đến lợi thế quốc gia trong một vài ngành hoặc một nhóm ngành
công nghiệp. Chính sách giáo dục, chính sách thuế, chính sách y tế,
chính sách chống độc quyền, chính sách điều tiết, chính sách môi
trường, chính sách tài khóa và tiền tệ và nhiều chính sách khác đều