có liên quan đến lợi thế như vậy. Một trong những thách thức chủ
yếu của việc lập chính sách hướng tới ngành công nghiệp là lịch
trình làm việc của gần như mọi cơ quan chính phủ và ủy ban pháp
luật cũng động chạm đến lợi thế cạnh tranh quốc gia theo một vài
cách nào đó. Nhưng lợi thế cạnh tranh quốc gia chỉ thuộc nhiệm vụ
chính của một vài cơ quan trong hầu hết các chính phủ. Tất cả
những quốc gia mà chúng tôi đã nghiên cứu đều có, ở mức độ nào
đó, tình trạng chồng chéo nhiệm vụ giữa các cơ quan và sự thiếu
nhất quán về chính sách ngành công nghiệp của các cơ quan chính
phủ khác nhau
.
Nhiều nghiên cứu về chính sách của chính phủ đối với sức
cạnh tranh tập trung xung quanh những khu vực như chính sách
thuế, giáo dục hay các qui định. Tôi tin rằng đây không phải là
cách tiếp cận tốt nhất. Chính sách của chính phủ quan trọng không
phải trực tiếp qua chính nó mà qua ảnh hưởng của nó lên “hình
thoi”. Những khu vực chính sách rộng lớn như các qui định ảnh
hưởng đến cạnh tranh theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, qui
định về tiêu chuẩn sản phẩm tác động đến điều kiện cầu trong khi
qui định về cấu trúc ngành lại tác động đến bản chất cạnh tranh nội
địa. Nới lỏng qui định có thể phù hợp trong một vài trường hợp
trong khi siết chặt qui định lại phù hợp với những trường hợp khác.
Rõ ràng hơn là khi ta xem xét các chính sách của chính phủ
khi chúng tác động lên mỗi nhân tố quyết định trong “hình thoi”.
Điều này làm lộ ra những cơ chế mà qua đó mỗi chính sách tác
động lên lợi thế quốc gia. Vì số lượng các chính sách có thể tác
động đến mỗi nhân tố quyết định là rất nhiều, ở đây tôi chỉ có thể
tập trung vào những chính sách phổ biến và quan trọng nhất. Sẽ là
không thực tế nếu thảo luận tất cả những sắc thái và những lựa