LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA - Trang 1097

nghiệp hàng đầu là có thật. Rất nhiều lĩnh vực là sức mạnh của Mỹ
trong suốt hai thập kỷ đầu sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, bất chấp
yêu cầu khắt khe về thị phần trong tổng xuất khẩu thế giới của một
ngành phải đạt 13,8% trở lên mới được xuất hiện trong biểu đồ.
Trong số những vị trí mạnh nhất, một số bị đánh giá thiếu chính
xác trong hệ thống phân loại thương mại, là các ngành bán dẫn và
máy vi tính, các thiết bị vận tải (xe hơi, máy bay, máy xử lý
nguyên vật liệu), hàng hóa tiêu dùng đóng gói, thiết bị văn phòng,
thiết bị sản xuất và phân phối điện, hóa chất và chất dẻo, thiết bị
viễn thông, hàng hóa quốc phòng, các sản phẩm giải trí, gỗ và
nông phẩm, các sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, và các dịch vụ kinh
doanh nói chung. Thực sự thì ngược lại với các quốc gia khác, ít có
khu vực nào (đáng chú ý là quần áo/dệt may và nhà ở) mà Mỹ
không đóng vai trò đáng kể.

Cần chú ý một số điểm khi xem xét Hình 7-2. Đầu tiên, hệ

thống phân loại thương mại được sử dụng năm 1971 mang tính
chung chung hơn (và vì thế không chính xác bằng) so với phiên
bản được cập nhật xuất hiện lần đầu năm 1976. Điều quan trọng
thứ hai cần tính đến là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Như năm
1971, quy mô của đầu tư nước ngoài bởi các doanh nghiệp Mỹ là
vô cùng to lớn khi so sánh với các quốc gia khác. Tỉ lệ xuất khẩu
của Mỹ làm hạ thấp sức mạnh quốc tế của Mỹ, cá biệt là trong các
dịch vụ và hàng hóa tiêu dùng đóng gói. Ở những nước mà số liệu
cho phép, tôi thêm vào các ngành công nghiệp khác phản ánh các
khu vực có đầu tư nước ngoài đáng kể. Tuy nhiên, số liệu FDI có
thể chấp nhận được ở mức độ cụ thể rất hiếm trong năm 1971, và
sự điều chỉnh FDI năm 1971 thì hoàn toàn thấp hơn mức mà tôi có
thể làm được trong năm 1985.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.