hơn có liên hệ gần gũi với nhau về mục đích sử dụng cuối cùng để
thể hiện rõ hơn bản chất của quá trình tổ hợp.
Thông thường, các ngành công nghiệp có liên quan được tìm
thấy trong cùng lĩnh vực rộng. Ví dụ, xe hơi và xe tải chở khách
đều được phân vào nhóm lĩnh vực vận tải. Tuy nhiên, ở tất cả các
quốc gia, có những mối liên kết giữa các nhóm ngành công nghiệp
mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực. Ví dụ tại Mỹ, vị trí trong ngành
bán dẫn và máy vi tính có liên quan tới sức mạnh quốc phòng. Vài
mối liên hệ quan trọng nhất tại mỗi quốc gia sẽ được minh họa
bằng cách tô đậm trong hình. Trong khi sự bố trí các ngành công
nghiệp trên biểu đồ là không hoàn hảo và bị giới hạn trong vài
trường hợp bởi những định nghĩa về nền công nghiệp quá rộng
trong hệ thống phân loại thương mại quốc tế, các biểu đồ cung cấp
một tiểu sử sơ lược đáng chú ý về nền kinh tế của mỗi quốc gia và
một công cụ để phân tích cách thức thay đổi của chúng. (Phụ lục A
mô tả đầy đủ hơn về cách xác định và định vị các ngành công
nghiệp trên biểu đồ tổ hợp).
Hình 7-2 thể hiện những kết quả của quá trình này đối với Mỹ
năm 1971. Nó đưa ra một tiểu sử sơ lược của tất cả các ngành công
nghiệp có bằng chứng về sự thành công quốc tế vào năm đó, sự thô
mộc của nó phản ánh một hệ thống phân loại ngành công nghiệp
trong năm 1971 sơ lược hơn so với bản năm 1976. Tất cả các biểu
đồ tiếp theo, bao gồm cả biểu đồ gần đây nhất của Mỹ trong
Chương 9, sẽ được dựa trên số liệu năm 1985.
Hình 7-2 cho thấy rằng phạm vi rộng lớn của các ngành công
nghiệp thành công được đưa ra bởi danh sách 50 ngành công