50 ngành công nghiệp hàng đầu của Mỹ trong năm 1971 bao
gồm một số lượng ngành quá lệ thuộc vào tài nguyên quốc gia,
trong số đó tôi đã phân loại rất nhiều sản phẩm nông nghiệp. Điều
này cũng đúng trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Nhưng sức cạnh
tranh khác thường của Mỹ được cho là nhờ vào sự đa dạng của các
ngành kinh tế khác trong Top 50, như máy bay, thiết bị chụp ảnh,
máy vi tính, hóa chất, các loại sản phẩm máy móc sản xuất và linh
kiện khác nhau, và hàng hóa tiêu dùng đóng gói.
Để minh họa rõ hơn các hình mẫu lợi thế cạnh tranh quốc gia
ở Mỹ và các quốc gia khác và cách thức mà chúng đã và đang thay
đổi, tôi sẽ sử dụng công cụ chủ yếu là một biểu đồ giống như biểu
đồ ở Hình 7-1
. Tôi sẽ gọi nó là biểu đồ tổ hợp (cluster chart). Các
ngành xuất hiện trên biểu đồ hoặc là có thị phần xuất khẩu thế giới
lớn hơn thị phần trung bình của quốc gia trong tổng xuất khẩu thế
giới hoặc là có một vị trí quốc tế dựa trên đầu tư nước ngoài được
ước lượng là lớn. Các ngành công nghiệp có thị phần xuất khẩu thế
giới vượt quá tỉ lệ trung bình của quốc gia thường chiếm hai phần
ba hoặc nhiều hơn tổng xuất khẩu của quốc gia đó. Các ngành công
nghiệp riêng biệt được trình bày bằng các kiểu chữ khác nhau, phụ
thuộc vào sức mạnh vị trí quốc tế của chúng.
Lý thuyết của tôi phân bổ những vai trò quan trọng cho các
điều kiện cầu và các mối liên hệ dọc giữa các ngành công nghiệp
trong việc kích thích lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, các ngành công