ở Nhật Bản, cũng như việc sử dụng các tàu chở hàng chuyên dụng.
Khoảng cách xa tạo ra sự quan tâm đến tính tin cậy nhằm tối thiểu
hóa những yêu cầu dịch vụ. Vị trí địa lý của Nhật cũng có tác dụng
khác: nó cho phép tiếp cận tương đối thuận lợi đến các thị trường
châu Á, những thị trường vốn không được các doanh nghiệp
phương Tây chú trọng hay phục vụ tốt. Trong nhiều ngành công
nghiệp, Nhật trước tiên xuất khẩu trong phạm vi châu Á, ngược lại
với ngành công nghiệp Hàn Quốc và Đài Loan, những nước mà thị
trường xuất khẩu chủ yếu ban đầu lại là thị trường phương Tây (và
đặc biệt là Mỹ).
Một bất lợi về yếu tố sản xuất phổ biến khác ở Nhật là chỉ phí
sử dụng đất rất cao, do khan hiếm đất có thể sử dụng được. Mật độ
dân số tương đối cao hơn so với các quốc gia khác ngay cả khi tính
bằng tổng diện tích Nhật Bản (xem Bảng 1-1), nhưng 75% địa hình
Nhật là đồi núi và không phù hợp cho việc xây nhà ở và nhà máy
sản xuất. Những áp lực về không gian không những ảnh hưởng đến
các điều kiện cầu (thích những hàng hóa gọn nhẹ và ít tốn diện
tích) mà còn buộc các công ty Nhật đến rút ngắn các dây chuyền
sản xuất, tránh phải sử dụng kho dự trữ không cần thiết và kết hợp
các hoạt động sản xuất. Ví dụ, các doanh nghiệp Nhật đã tiên
phong trong việc sản xuất tiết kiệm không gian và đúng thời điểm.
Bất lợi cuối cùng là sự tăng giá của đồng yên bắt đầu từ năm
1973 nhưng đặc biệt là sự định giá tăng đồng yên vào giữa những
năm 1980. Sự tăng giá dẫn đến hoạt động sôi sục trong các công ty
Nhật Bản để có thể bù đắp lại. Cải thiện năng suất thông qua tự
động hóa, chuyển sang những phân đoạn sản phẩm tinh vi hơn, và
toàn cầu hóa sản xuất là 3 cách đối phó phổ biến, tất cả đều đặc
biệt có lợi cho sự bền vững của các lợi thế của Nhật trong dài hạn.