tiên tiến, tuy vậy, làm phức tạp bất kỳ một sự tổng
quát hóa nào về tỷ lệ của ngành dịch vụ trong GDP ở
mỗi giai đoạn khác nhau. Thành công quốc tế trong
dịch vụ không phải là dấu hiệu của suy giảm. Những
ngành công nghiệp cụ thể mà một quốc gia thành
công là chỉ dẫn tốt hơn về giai đoạn phát triển cạnh
tranh của nền kinh tế quốc gia đó.
Giai đoạn dựa vào của cải là giai đoạn trì trệ và
cuối cùng suy thoái bởi vì số lượng các ngành có thể
duy trì lợi thế cạnh tranh là không đủ để huy động
hết lực lượng lao động vào trong những công việc
năng suất cao và hỗ trợ mức sống tăng. Một quốc gia
trong giai đoạn này sẽ trở thành một đối tượng
nghiên cứu đầy mâu thuẫn. Một mặt, đó là một quốc
gia “giàu có” với những công ty giàu có và một số
công dân giàu có tận hưởng những thành quả của các
ngành công nghiệp cạnh tranh và những đầu tư quốc
gia tích lũy trong quá khứ. Đó thường là một quốc
gia với những mục tiêu xã hội to lớn. Đầu tư ra nước
ngoài có thể rất lớn bất chấp tình trạng đầu tư kém
của các ngành công nghiệp trong nước. Tuy nhiên,
bản chất của đầu tư nước ngoài thay đổi từ đầu tư