gái và các con đã tới Bidong.
"Em Tư,
Anh vừa đọc bài báo viết về chuyến vượt biển hãi hùng của gia đình em.
Anh thương em nhiều lắm, nhất là về cái chết thảm thương của chồng em.
Cầu mong em có đủ nghị lực để vượt qua gian đoạn khó khăn này. Nhận
được thư này, trả lời cho anh ngay để anh làm thủ tục bảo lãnh gia đình
em.
Từ ngày rời Việt Nam, anh tìm mọi cách liên lạc và gửi nhiều thư về nhà
nhưng đều không được hồi âm nên không biết tin tức gì về ba má và các
em.
Vài hàng để em biết tin. Thư sau sẽ viết dài.
Anh Hai,
Phan Văn Hùng"
Nhàn đọc đi đọc lại lá thư ngắn của Hùng và thắc mắc không thấy anh nhắc
gì đến Trí, người em trai cũng rời nước vào ngày 30-4-1975. Trí đang ở
đâu? Có đi thoát được không? Có thể Hùng không nói gì đến Trí vì viết
vội để gửi cho Nhàn.
Lá thư của Hùng nhận được ở trại tị nạn đã như một luồng nước ấm chuyển
vào tâm hồn đang bị ướp lạnh của Nhàn. Hình ảnh của người anh hiện ra
rõ rệt trong óc cô cùng với những người thân khác trong gia đình và những
biến cố đã xảy đến trong sáu năm qua từ ngày chiến tranh chấm dứt. Cô bị
tràn ngập bởi những cảm xúc, vừa yêu thương ngọt ngào, vừa phẫn uất sục
sôi. Tối hôm ấy, trời đổ mưa lớn. Sấm sét liên hồi, sóng biển rì rầm hòa
lẫn tiếng mưa như thác đổ càng làm cho tâm hồn Nhàn bị lay động mạnh.
Các con đã ngủ, cô ngồi trước ngọn đèn dầu leo lét trên chiếc bàn gỗ ọp ẹp
viết cho Hùng lá thư dài, kể hết chuyện nhà. Sau đó, cô loay hoay ghi lên
giấy những dòng thơ từ trong tim tuôn ra, không gọt dũa vần điệu, trong
khi hình ảnh những người thân đã chết lần lượt hiện ra qua làn nước mắt:
Hoà Bình!
Hòa Bình cho Việt Nam!
Thế giới hò hét trên đường phố
Nhân loại thắp nến nguyện cầu...