tơ mạnh mẽ đạp chết người trong thiên hạ.’ Đó là điềm ứng tại tâm
ngươi, chẳng cầu vội nói."
Hoài Nhượng Thiền Sư liền suốt thông, hiểu rõ điều ấy, mới theo Đại sư
hầu hạ mười lăm năm, một ngày kia đạt được chỗ huyền áo. Sau Thiền
Sư qua núi Nam Nhạc, mở rộng cửa Thiền tông. Sau viên tịch rồi,
người được sắc phong là Đại Huệ Thiền Sư.
Giảng:
Hoài là hoài niệm, Nhượng là khiêm nhường, vị Thiền sư này đối với ai
cũng đều không có tâm cống cao, Ngài rất từ bi hạ mình, khiêm nhường
cung kính. Trong tâm Ngài thường hoài niệm niềm cung kính, đối với bất
cứ người nào cũng đều lịch sự lễ độ, có dường như không, thực như hư.
Thiền sư là người Kim Châu, con nhà họ Đỗ. Ban đầu yết kiến An Quốc sư
ở Tung Sơn học tập Phật pháp, nhưng Quốc sư An phái Ngài đến Tào Khê
học Phật pháp, vì đương thời ai cũng biết Tào Khê là Phật pháp chánh tông.
Giống như hiện nay người Mỹ muốn học Phật pháp chân chánh, thì phải
nghiên cứu kinh điển, lại cần phải không sợ khổ, không sợ khó khăn, không
làm biếng học tập Phật pháp. Lúc đó chùa Nam Hoa của Lục Tổ Đại sư
cũng là mỗi ngày tọa thiền, làm công quả. Lúc đó công khóa rất nghiêm
mật, sáng sớm ba giờ rưỡi thức dậy, bốn giờ công phu sáng, năm giờ tọa
thiền, trời vừa sáng thì ăn cháo, sau đó lại ngồi thiền một giờ đồng hồ. Lúc
này là khoảng tám giờ, liền bắt đầu chấp tác cho đến mười giờ. Chấp tác
xong trở về nghỉ ngơi một giờ đồng hồ, mười một giờ thì độ ngọ, độ ngọ
xong là ngồi thiền, mười hai giờ ngồi đến hai giờ. Hai giờ lại chấp tác đến
bốn giờ. Làm xong trở về lại ngồi thiền, tụng kinh bái sám cho đến mười
giờ đêm, có người dụng công đến mười hai giờ khuya. Mỗi người tự dụng
công của mình, mỗi ngày đều như thế, đạo phong rất nghiêm cẩn, ai cũng
phải cần giữ gìn giới luật quy củ, mấy ngàn người đồng tụ tập mà không
nghe một tiếng nói chuyện. Tại sao vậy? Vì nói chuyện sẽ có nhiều vọng