3. Chú tâm
Chú tâm (attend) là một thành tố quan trọng của trí nhớ. Chú tâm bao gồm Thái độ
(Attitude) – Cố gắng (Try) – Theo dõi, tìm kiếm (Track) – Cảm xúc (Emotion) – Thú vị, hấp
dẫn (Nice) – Mục đích (Destination). Có thể nói, chú tâm là sự tập trung cao độ vào một sự
vật, sự việc hay hiện tượng nào đó.
Chú tâm là dạng cao hơn, phức tạp hơn so với nhận thức. Bạn có thể nhận thức về sự hiện
diện của một người trong phòng nhưng phải chú tâm mới quan sát hết được những sự thay
đổi trong phong cách làm việc của người đó. Hoặc bạn nhận thức về sự tồn tại của cuốn
sách nhưng phải chú tâm đọc mới biết được cuốn sách đó có nội dung thế nào.
Như đã phân tích trong phần trước, một trong những nguyên nhân chính khiến cho trí nhớ
của chúng ta trở nên nghèo nàn chính là tập trung kém. Khi mất tập trung, trí não của bạn
hầu như không thể thu nhận hay nhớ được bất cứ thông tin nào.
Hiện tượng này giống như việc bạn đang nghe thầy giáo hướng dẫn đề cương cuối kỳ nhưng
tâm trí lại mơ tưởng về buổi tiệc sinh nhật cuối tuần. Đương nhiên kiến thức của thầy cô lọt
tai này và ra khỏi tai kia của bạn ngay lập tức.
Thực tế, trí não của chúng ta không có khả năng lưu trữ thông tin không được nhận thức. Có
nghĩa là khi không thu nhận đủ dữ liệu để tạo thành ý thức về sự vật hiện tượng, bạn sẽ
không có động lực để nỗ lực ghi nhớ. Cho nên muốn ý thức và ghi nhớ được sự vật hiện
tượng, bạn phải chú tâm. Có hai dạng chú tâm chính: tự nguyện và không tự nguyện.
Chú tâm tự nguyện xuất phát từ sự quan tâm vốn có hoặc được gắn liền với sự vật hiện
tượng. Bạn không mất nhiều công sức làm việc này. Nó xuất phát từ những cảm xúc tự
nhiên trong trí não. Nếu yêu thích âm nhạc, bạn sẽ dễ dàng chú tâm hay say sưa với những
lời ca trong các bản nhạc bạn được nghe.
Ngược lại, chú tâm không tự nguyện là dạng chú tâm được áp dụng với những sự vật hiện
tượng mà bạn không thấy thú vị. Chúng đòi hỏi bạn phải đầu tư nhiều nỗ lực mới có thể đạt
23