khác, đình Giao Tự có riêng một miếu thờ Hậu, tức thờ những người đã
đóng góp nhiều công sức trong các đợt xây dựng và trùng tu đình, trong đó
có Đặng Quang Tiến. Miếu thờ Hậu nằm ngay phía sau đình chính.
Trước cổng đình có đắp hình hai võ tướng với voi và ngựa. Tam quan
của đình với ba vào ra, bốn cột trụ trên đỉnh đắp hình tứ phượng, dọc thân
gắn câu đối. Qua cửa tam quan đến một sân rộng lát gạch Bát Tràng, hai
bên có hai dãy nhà giải vũ, mỗi bên chín gian. Kiến trúc tổng thể của đình
dạng chữ "Công". Hiện tại, quy mô của đình gồm có đại đình 5 gian, tòa
Thiêu hương và hậu cung.
Giữa đại đình treo một bức hoành phi có bốn chữ Nho: "Thánh Cung vạn
tuế", một nhang án thờ với các mảng chạm rồng, phượng, hổ, rùa, long
mã... Ngoài ra trong đình còn có một cỗ kiệu bát cống và hai khám mui
luyện, trong khám có bài vị Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim). Khám thờ và bài
vị đều là tác phẩm điêu khắc tinh xảo với các đề tài rồng, lá đề, phượng,
mây, hoa, lá mang nét nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII. Bên cạnh đó còn một
bộ long đình, một bộ bát bửu, một giá gươm, các hoành phi câu đối, choé
sứ, bát hương, mâm đồng, đỉnh đồng, lư hương đồng, cây nến đồng.
Đình Giao Tự còn giữ được một cuốn thần phả soạn năm Hồng Phúc thứ
nhất đời Lê Thánh Tông, một cuốn "Lý Thái Hậu thực lục", 13 đạo sắc
phong thần của các triều đại Hậu Lê, Tây Sơn và Nguyễn.
Tấm bia dựng năm Chính Hòa thứ 11 (1690) đời Lê Hy Tông ghi việc
triều đình sắc phong Lý Chiêu Hoàng là Trung đẳng phúc thần.
Hàng năm, từ ngày 13 đến 15 tháng 3 âm lịch, người dân Giao Tự lại mở
hội làng, theo lệ mỗi năm, mỗi giáp có một người gánh trưởng phải nuôi
lợn thờ (nuôi trước một năm) để có đồ tế lễ. Mở đầu hội là lễ rước nước từ
chùa Keo (làng Giao Tất) về làm lễ mộc dục. Ngày 14 nhập tịch, ngày 15
chính hội, tế lễ và rước cùng làng Đa Tiện. Trong hội có các trò chơi: đu