pháp, chưa kiểm chứng xem đúng sai đến đâu đã vội cho thi hành, khác nào
làm hại đất nước?”
Tống Tề Dụ lập tức hỏi vặn: “Nếu huynh lâm trọng bệnh, lại mời được
danh y Biển Thước kê đơn cho, thì anh có uống hay không?”
Lang Phồn ngồi bên nghiêm giọng nói: “Vương An Thạch còm, mà là
Biển Thước cứu đời hay sao? Ông ta chẳng qua chỉ chắp vá thuật hà khắc
của Pháp gia với thủ đoạn bóc lột của Hán vũ đế mà thôi.”
Tống Tề Dụ mỉm cười: “Huynh không nghe nói ‘thiên hạ đồng quy,
dẫu đường đi khác nhau, cách nghĩ khác nhau à? Miễn là có lợi cho dân cho
nước, thì đâu cần phân biệt Nho - Pháp, hay Đạo - Thích?”
Giản Trang rất khó chịu nhưng anh rất giỏi tự kiểm soát, chỉ chậm rãi
nói: “Quân tử không né tránh bàn về chữ Lợi, nhưng rất thận trọng khi nói
đến. Mở đầu sách Mạnh Tử là mấy câu này: ‘ngài (vua Lương Huệ Vương)
hà tất phải nói đến Lợi, chỉ cần có Nhân, Nghĩa là đủ rồi. Vua hỏi thứ gì có
thể lợi cho nước, dân thường hỏi thứ gì có thể lợi cho tôi, mọi người tranh
nhau tìm kiếm cái lợi thì đất nước nguy mất!’ Sai lầm lớn nhất của Vương
An Thạch là quá thiên về chữ Lợi. Dân thường kiếm lợi còn cân nhắc chút
ít nhân nghĩa đúng sai, ông ta là tể tướng, nhưng đường lối chỉ nhằm tập
trung cho cái Lợi. Kẻ dưới bắt chước bề trên, cả nước chỉ còn một chữ Lợi;
khi hám lợi thì bất chấp nhân nghĩa, thế gian này sẽ ra sao? Sẽ là cầm thú
theo đuổi trục lợi mà thôi! Họ sẽ không biết rằng nếu không có nhân nghĩa,
thì dù kiếm được lợi, cái lợi ấy cũng không thể lâu dài. Thử nghĩ xem sau
mấy chục năm thi hành tân pháp đã có ai được lợi chưa? Quốc khố vẫn
thiếu thốn, trăm họ vẫn khốn đốn, chỉ xây thêm được vài Đạo quán, đắp
thêm được mấy gò đất…”
Nghe tiếp, Tống Tề Dụ dần giảm sút nhuệ khí, cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi
nói: “Vương An Thạch suốt đời thanh bạch giản dị, là tể tướng, mặc áo
quần tuềnh toàng cũ kĩ cũng không bận tâm, ăn cơm chỉ độc một món, ông
không hề cầu lợi cho mình! Ông nói về lợi, tìm kiếm cái lợi nhằm diệt trừ
cái hại của thời thế, mong cho nước giàu quân mạnh.”