nhất dành cho cậu bé đó là sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ dẫn cậu đến
một ngôi chùa, xuất gia làm hòa thượng rồi yên ổn sống hết kiếp này mà
thôi. Thế nhưng anh cũng hiểu, nếu để Karaweik ở lại Miến Điện, chắc
chắn cậu sẽ không tránh khỏi cảnh bị truy bắt và chỉ có con đường chết
chờ đợi. Có điều kết cục này quá tàn khốc, anh quả thực không dám nghĩ
đến.
Tuyệt thương xót sờ sờ vào cái đầu trọc lốc của Karaweik, giọng
nghèn nghẹn: “Đứa bé này thật tốt bụng!” Cô vừa nói vừa trừng mắt nhìn
La Đại Hải, như tỏ ý trách móc anh lúc đầu hay nổi cáu với Karaweik.
Hải ngọng cảm thấy hơi ngượng ngùng, anh thường đối xử với mọi
người khá thiếu tế nhị, lại không giỏi thể hiện tình cảm thật. Thường
ngày anh hay lắm lời, nhưng đến lúc cần phải nói thì lại chẳng nói được
câu nào tử tế, đành phải giả bộ “quan tâm đến sự trưởng thành của đàn
em”, nói tía lia với Karaweik: “Không ngờ thằng giặc nhỏ này lại là Hoa
kiều, hôm nay... mẹ kiếp! Cứ coi như La Đại Hải anh đây nợ chú một
ân!”
Tư Mã Khôi hiểu rất rõ tuy La Đại Hải chỉ nói một câu đơn sơ như
vậy, nhưng sâu bên trong chứa đựng ý chí sẵn sàng chết thay cho
Karaweik một mạng. Có điều không hiểu sao, sau khi đứng bên cạnh
nghe mấy lời này, trong lòng Tư Mã Khôi đột nhiên dội lên cảm giác sợ
hãi khó tả, anh linh cảm chuyến đi này lành ít dữ nhiều. Anh cũng không
hiểu nguyên nhân gì lại khiến mình có dự cảm xấu đến thế, nên thầm
nghĩ hay là cứ ở lại trong rừng rậm nguyên sinh làm người rừng quách
cho xong, về mà phải chết thì thà cứ trốn trong rừng sâu mai danh ẩn tích
chẳng phải tốt hơn sao?
Nhưng Tuyệt và La Đại Hải lại một lòng nhớ cố hương, hai người
họ cứ thúc giục Tư Mã Khôi mau lên đường, hiện giờ càng hướng về
phía bắc càng an toàn, nếu không cơn bão nhiệt đới “Buddha” mà tới thì
có muốn đi cũng chẳng thể đi nổi.
Tư Mã Khôi đành lấy lại tinh thần, đi theo ba người vào khe núi
phía tây. Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách trong rừng rậm