sánh nổi, mà đa phần đều do máy bay ném bom của Anh năm đó để lại
khi phá hủy lá chắn của quân Nhật. Những hố bom đó thật chẳng khác
chi hố nham thạch, được hình thành do mảnh thiên thạch từ trên trời rơi
xuống, vì lớp bề mặt trong hố hình thành các quầng sóng khuếch tán
thành từng vòng tròn, bao nhiêu năm sau vẫn chẳng có cọng cỏ nào mọc
lên nổi. Những nơi sóng địa chấn lan đến, đất đá bị nung nóng bỏng,
chạm vào là chết, dính vào là tử.
Tư Mã Khôi thầm tính toán trong lòng, thấy chẳng ai đáng phải
chết cả, liền nói với Ngọc Phi Yến: “Vật cố định, còn con người phải
chuyển động, người sống cần biết biến hóa ứng phó. Nếu thực sự không
xong, thì chúng ta hãy mặc kệ quả bom đó. Sau khi trở về, cô cứ nói là
đã cố gắng phụng mệnh hết sức, kích nổ trái bom địa chấn, nhưng tiếc
thay quả bom xịt này chẳng thèm phát nổ, hoặc có thể đổ lỗi rằng: đã
kích nổ, nhưng uy lực của nó chưa đủ, nên không thể đạt được hiệu quả
như mong muốn. Dù sao thì chỉ cần da môi trên chạm da môi dưới một
chút thôi mà, tùy cô muốn nói thế nào chẳng được. Sau khi cơn bão nhiệt
đới qua đi, lòng đất lại bị sương mù bủa vây, lẽ nào họ lại dám xuống
đây để tiến hành điều tra hiện trường chắc?”
Ngọc Phi Yến lập tức lắc đầu: “Tuyệt đối không được, anh không
biết gì về Nấm mồ xanh đâu, mấy ngón ma thổi đèn như bọt khói này thì
giấu nổi ai chứ?”
Tư Mã Khôi vẫn điềm nhiên như không: “Trong thời đại này,
người nào càng nghiêm túc thì càng dễ trở thành kẻ ngốc. Làm người
không nên thật thà quá, đừng quên trên thế giới chẳng bao giờ tồn tại loại
mắt nhìn xa vạn dặm, tai nghe xa vạn lý, người ngoài làm sao biết
chuyện gì đã xảy ra trong khe núi núi Dã Nhân? Chúng ta ở đây có sáu
người, tôi, La Đại Hải và Tuyệt sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ bơi qua
sông Mungkoe trở về Trung Quốc, cả đời này có lẽ chẳng còn cơ hội gặp
lại nhau. Gã người Nga thì là câm dở, hơn nữa gã cũng chẳng sợ chết
quá đi chứ? Hay lẽ nào cô sợ thằng oắt con không hiểu chuyện như
Karaweik lỡ lời nói ra? Tôi thấy chỉ cần cô không tiết lộ, thì tuyệt đối
thần không hay, quỷ không biết.”