đều không khỏi trầm trồ thán phục trước vẻ uy nghiêm, lộng lẫy như cõi
mộng của nó.
Có điều, tuy địa thế núi Dã Nhân kỳ lạ tột độ nhưng đó lại là một
ngọn núi cát có vỏ ngoài là đá. Vì bên trong toàn bộ là đất cát, nên lòng
núi rỗng ruột, đáy thần điện che phủ dải hồ rộng lớn dưới lòng đất. Sau
này, do mạch nước lún xuống, lòng núi sụt vỡ, nên vô số tháp cổ cùng
toàn bộ thực vật trong cánh rừng gần đó đều bị lún chìm dưới vực sâu
không đáy, từ đó hình thành nên khe sâu núi Dã Nhân.
Nói khe sâu núi Dã Nhân là một vực sâu không đáy, thì cũng
chẳng ngoa chút nào. Thì ra, mạch nước hồ dưới lòng đất đã sớm khô
kiệt, nhưng đáy hồ vẫn sót lại bể bùn rộng lớn vô biên, thành cổ và cánh
rừng sụt xuống dưới, đều bị bùn lầy sâu khôn lường và khí mêtan che đỡ,
và vì nằm chêch vênh trên lớp bùn lầy, nên bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng
tiếp tục sụt lún sâu hơn.
Đại nạn khủng khiếp bất ngờ đổ xuống, khiến vương triều Chăm
Pa vô cùng khiếp sợ. Họ cử người xuống khe núi thăm dò, chỉ thấy tòa
thành bốn triệu bảo tháp bị hư hại nghiêm trọng, bèn cho rằng đây là họa
trời tru đất diệt, là thần phật nổi trận lôi đình, là điềm hung vong quốc.
Quốc vương Chăm Pa lúc bấy giờ là vua Anagaya, ông ta nghĩ kế
đề phòng hậu họa về sau, liền sai người luyện vàng, đúc cảnh tượng bốn
triệu tòa bảo tháp lên bức tường thành, rồi từng thỏi vàng trùng trùng
điệp điệp chồng chất lên nhau, tạo thành thứ kiến trúc hình con nhện
quái dị. Bởi vậy, họ đặt tên cho khối vàng thỏi này là “tòa thành bốn
triệu bảo tháp”, với ý định lưu lại, đợi khi nào phục hưng đất nước thì sẽ
dùng tới.
Cũng chẳng ai hiểu rõ vì sao người Chăm Pa khi ấy lại có nhiều
vàng đến thế. Có thuyết nói, người cổ xưa biết nuôi loài “kiến tha vàng”,
vàng đúc tòa thành cũng không phải là loại vàng ròng tinh khiết, mà
những thỏi vàng ấy thực ra là “vàng hời”, loại vàng có pha lẫn bạc, màu
vàng xanh được cán mỏng như tờ giấy, bọc bên ngoài viên gạch. Công
nghệ xây dựng này rất thường thấy ở Miến Điện, nên ngẩng đầu lên nhìn