Một từ duy nhất về lí thuyết này cũng chớ nên để mất, bởi nhầm
lẫn này đưa lại một cơ hội cực kì hiếm hoi để diễn đạt sự khác biệt giữa
canh tác thời cổ và thời kì lịch sử.
Không nên để lỡ cơ hội này, bởi vì sự khác biệt trong canh tác thời
cổ và trong thời kì lịch sử có ý nghĩa quyết định đến mức, nếu một
người nào đó định miêu tả sự canh tác thời cổ, mà quên xem xét thời
hiện tại, thì chỉ nêu một từ thôi, người ngày nay cũng không thể hiểu
nổi.
Câu chuyện bắt đầu như sau: con người thời kì lịch sử (sau Công
nguyên) cũng giống con người trước thời kì lịch sử đều cực kì nhấn
mạnh đến việc nâng cao mức sống. Con người hiện đại thành công tạo
ra cả một hệ thống các công cụ và những thứ phụ trợ cho đời sống,
nhưng chỉ liên quan đến những gì bên ngoài đời sống mà thôi.
Trong khi việc hoàn hảo hóa bề mặt bên ngoài đạt đến mức độ cực
kì cao, thì con người, không chỉ không thay đổi mà còn đặc biệt suy
thoái đi. Ở đây không phải vấn đề: chất lượng đời sống tinh thần của
con người hiện đại được trang bị bằng điện, sưởi ga, telefon, radio hay
máy bay, không cao hơn đời sống tinh thần của người nguyên thủy bao
nhiêu. Mà vấn đề là: lí tưởng tính con người trang bị cho mình không
dựa trên một nền tảng nào cả.
Những lí thuyết đạo đức lí tưởng cao vời vợi không ngăn chặn nổi
con người chớ sống một đời sống gần như hoàn toàn vô giá trị đạo đức.
Những yêu cầu to lớn quá chuẩn mực tràn ngập trong các lí thuyết về
nhà nước, nghệ thuật, trong các sở thích ưu tiên, nhưng không ai có thể
thực hiện nổi, thậm chí niềm cảm hứng về các yêu cầu này cũng biến
mất từ hàng thế kỉ nay.
Hiện thực tinh thần trong tầm vóc tổng thể của nó có mặt trong
hiện tại, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, đạo đức, đại diện cho tinh thần.
Nhưng khả năng hiện thực hóa những điều này từ phía con người đã
hoàn toàn biến mất.