Người ta thản nhiên xây dựng những lí thuyết đồ sộ về tôn giáo,
về đạo đức, về trật tự, về sự sống đích thực. Yêu cầu của sự canh tác
có, nhưng không ai phù hợp với những yêu cầu này, và sự canh tác này
không thể hiện thực hóa.
Con người hiện đại sống trong một giả bộ về trình độ tinh thần cực
kì cao; nhưng thực chất trình độ này là một ảo tưởng trắng trợn, bởi từ
hệ thống tinh thần này không ai thực hiện nổi bất cứ cái gì.
Người ta gọi văn hóa là mức độ tinh thần, đạo đức, trật tự, sở thích
đã qua giáo dục, là sự sống hối hả, là những yêu cầu cao, những lí
tưởng con người hiện đại tự đặt ra cho mình.
Bản thân con người hiện đại không với tới được nền văn hóa này,
ở sâu hơn, trong bản năng, trong tư tưởng, trong đam mê, nhu cầu tinh
thần của họ thực ra phát triển một cách buông thả. Cái mà con người
hiện tại đặt tên là văn hóa, không phải một sự canh tác, khai phá tích
cực mà là một thứ lí tưởng tính quá cỡ.
Bằng ánh sáng soi rọi từ bên trong có thể hiểu ngay được tình thế
này. Con người càng hoạt động năng động bao nhiêu, càng nảy sinh
nhiều tư tưởng tinh thần sáng sủa bấy nhiêu. Điều này không còn nghi
ngờ gì nữa. Sự hoạt động càng có hiệu quả bao nhiêu, tinh thần - người
cha của hoạt động - càng được hiện thực hóa một cách trực tiếp bấy
nhiêu.
Từ điều này tự nó cho thấy sự hoạt động càng yếu ớt và vô hiệu
quả bao nhiêu, tư tưởng trong con người càng ít đi bấy nhiêu, nói cách
khác: hoạt động tinh thần càng bị thu hẹp lại bao nhiêu, hành động càng
bất lực và trống rỗng bấy nhiêu.
Bởi, hoạt động không là gì khác ngoài một tinh thần đã được thực
hiện, và tinh thần không là gì khác, ngoài tình yêu thương, một thứ tinh
thần tích cực, thứ tinh thần của NGƯỜI CHA, không cần chỉ dẫn tự nó
cũng đã có thể hiểu được.
Có loại hoạt động trong đó tinh thần được thực hiện một cách đầy
đủ; có loại hoạt động trong đó tinh thần bị thu hẹp lại; và có loại hoạt