Con người thời lịch sử, nhất là thời hiện nay sống trong một sự
nhầm lẫn, rằng sự canh tác đích thực tự mình cần tạo ra, mục đích tự
mình cần lập ra, tiêu chuẩn tự mình cần xây dựng, và các lí tưởng tự
mình cần nghĩ ra. Họ quay cái TÔI của họ vào việc đi tìm tinh thần,
mục đích, tiêu chuẩn và các lí tưởng. Sau đó gọi sự tìm kiếm những thứ
họ tự đặt ra là văn hóa.
Họ không biết rằng: tinh thần của canh tác tích cực thế giới vật
chất không cần tìm kiếm. Ngay từ thuở ban đầu, tinh thần như một lời
tuyên ngôn đã có sẵn, và nếu như nó không được gìn giữ trong các
cuốn sách thiêng, nó vẫn được giữ như tình cảm bất biến bất tử của linh
hồn con người.
Cần phải làm gì, cần tiếp tục hoạt động gì, cần duy trì tiêu chuẩn
nào, cần thực hiện những lí tưởng nào, điều này cái tinh thần của tình
yêu thương trong con người đều biết đến từ sự vĩnh cửu.
Các sức mạnh tồn tại trong con người đâu phải dùng để tìm ra một
tinh thần mới. Và điều này cũng không thể; một tinh thần mang tính
chất cá nhân chỉ là sự bóp méo của định luật tinh thần siêu việt duy
nhất mà người Ấn Độ gọi là dharma. Và khi con người thời kì lịch sử
đặt ý chí cái TÔI cá nhân vào vị trí của định luật tinh thần phổ quát, họ
đã phá hỏng tinh thần.
Các sức mạnh không dùng để tìm ra tinh thần mới mà để thực hiện
tinh thần vĩnh cửu và phổ quát. Truyền thống bảo vệ thứ tinh thần vĩnh
cửu và phổ quát này, thứ tinh thần ngay từ thuở ban đầu đã từng có, vẫn
đang có và sẽ tiếp tục có như một lời tuyên ngôn.
Như vậy văn hóa không phải là sự tìm ra, tạo ra một tinh thần, một
mục đích tiêu chuẩn chưa bao giờ có ở đâu, mà; văn hóa là việc hiện
thực hóa thứ tinh thần đã được truyền thống giữ gìn.
Lấy một ví dụ đơn giản: Các thư viện khoa học lớn của thời hiện
đại giữ gìn những biểu hiện tinh thần gắng sức khủng khiếp trong hàng
triệu tập sách. Để thực hiện điều này con người phải bỏ vào đấy một số
lượng lớn các nhà bác học, rất nhiều công việc, công sức, thời gian,