Thuật giả kim gìn giữ những thực hành cổ có liên quan đến việc trả lại
vị trí cho androgen.
Trong sự thống nhất tận cùng của thuật giả kim, người ta biến việc
luyện ra vàng, chính là việc xây dựng lên thời hoàng kim thành một hệ
thống có ý thức và tiến hành từng bước, dấu vết của sự dạy dỗ này có
thể bắt gặp ở Ai Cập, nhưng thực ra ở truyền thống nào cũng có thể
thấy rõ (Trung Quốc, Ấn Độ, Orfika, Kabbala).
Tác phẩm quan trọng nhất của sự thực hành này là sự thanh tẩy,
đặc biệt bằng sự giúp đỡ của lửa. Lửa này, ở Ấn Độ là tapasz, lửa của
sự tự phủ định, ở nhóm Orfika là lửa của sự khổ hạnh, ở người Do Thái
là sự nhịn ăn, cầu nguyện, tắm rửa, ở thời trung cổ là lửa thanh tẩy.
Vàng là ánh sáng chói ngời, là zohar, là bahhir, như người Do Thái
thường nói. Sự sống vàng là thứ cần phải đạt tới.
22.
Kĩ thuật của thuật luyện vàng, là trong lửa (khổ hạnh, tapasz, tự phủ
định) cần làm lên men giống đực và cái tự nhiên, cần phá vỡ, cần để nó
hỏng, cần sấy khô, cần đốt cháy thành tro.
Đây là putrefactio với nhiều phương pháp của nó. Hai con đường
quan trọng nhất là khô và ẩm ướt. Các kĩ thuật của thuật luyện vàng cần
thực hành thường xuyên, không ngơi nghỉ và cần thẩm thấu tất cả.
Con người tự thực hành tác phẩm này trong bản thân mình một
cách có ý thức, cái mà số phận (nhu cầu) trong đời sống của nó cũng
thực hiện - và quả thật được thực hiện, khi xay mọi sự thừa thãi ra
thành bột.
Nhưng putrefactio có ý thức và tỉnh táo xảy ra dưới sự giám sát
của nhận thức người, và lúc đó sự đau khổ của nó có ý nghĩa và được
soi sáng trong từng bước của quá trình. Khi số phận kết thúc, thật đau
khổ, nhưng cần phải như thế; Gottes Mühlen mahlen langsam, aber
trefflich klein (những máy xay của Thượng Đế xay từ từ, nhưng thành
bụi, thành bụi hoàn toàn).