là sự tạo dựng. Cái từng có là giới tính - sinh sản, không phải bằng con
đường tách đôi giống đực - cái mà trong androgen.
Bởi vậy ai không đặt trọng tâm lên đặc tính ảo ảnh của tạo hóa, mà
lên sự phục sinh không ngừng của sự sống (như Böhmen). Người đó
không nói: Thượng Đế sinh ra thế gian, mà biết rằng thế gian tự hình
thành giới tính và sinh sản trong bản thân, hay nói cách khác, không
ngừng giới tính hóa và sinh sản.
Tương đồng là từ chúng ta nói đến. Từ này là átman, là từ bộc lộ
sự tương đồng của mọi thực thể sống trong sự tồn tại. Một từ duy nhất
dùng để chỉ khái niệm hóa giới tính và sự sinh sản không có. Chúng ta
sẽ không hề linh cảm về điều này nếu chúng ta không nhận biết về
androgen.
114.
Cái xảy ra giữa đàn ông và đàn bà, là sự tương đồng đổi mới không
ngừng xảy ra trong sự phức tạp của sự sống.
115.
In hora conjunctionis maxima apparent miracula - Thời điểm kết hợp
là phép lạ rõ nhất.
116.
Bởi không có một khách thể mang giá trị hoàn toàn phù hợp với chủ
thể, nên tất cả mọi phản chiếu nhất thiết cần phải là từng bộ phận.
Không thể phơi bày đầy đủ chủ thể. Điều này liên quan đến kẻ tạo dựng
lẫn sự tạo dựng. Thế gian không phải là sự phơi bày đầy đủ của thực
thể tạo dựng, chỉ thuần túy là một sự phóng chiếu, phản ánh. Như vậy,
khi kẻ tạo dựng đồng nhất mình với những sản phẩm tạo dựng một
cách nhầm lẫn và tạo ra đời sống, cái tạo ra đời sống chỉ là một phần,
một bộ phận.