khỏi địa oa tử của nông trường số 17, đi về phía trước không xa lắm, ở giữa
hoang nguyên có một cái địa câu do anh em trong binh đoàn nông khẩn và
trấn thủ chúng tôi hồi trước đào ra, bề rộng chừng một mét, sâu tầm hai hay
ba mét gì đấy tôi cũng không nhớ rõ lắm, dùng để thoát nước mỗi mùa lũ.
Nếu như có thể chui xuống địa câu, có lẽ sẽ tránh được bão tuyết điên
cuồng ngoài kia, bất quá không thể nào mà ngăn cản được bầy sói hung dữ
đến từ vùng Siberia giá lạnh này. Nhưng chúng tôi cũng không có thời gian
để suy nghĩ nhiều như vậy, vừa thấy con hồ ly kia chui xuống, mấy người
cũng liền lăn một vòng vào địa câu, mở đèn pin lên soi đường, lao đảo bám
theo phía sau nó, thất tha thất thểu cứ thế đi về phía trước không dám dừng
một bước nào. Con hồ ly già tựa hồ như đang đợi chúng tôi vậy, thỉnh
thoảng lại xoay đầu lại nhìn như kiểu xem xem chúng tôi có đi lạc hay
không. Trong lòng tôi khẽ động: “Dẫu sao từ trước đến giờ nó đều coi mấy
người trong nông trường là tử địch, lẽ nào giờ lại tốt bụng dẫn theo mọi
người tìm đường thoát thân?”
Binh đoàn chúng tôi chỉ đào có duy nhất một cái địa câu để thoát
nước, nhưng hai bên lại có rất nhiều hạn câu, nông sâu không hề giống
nhau, thế đi cũng không theo quy tắc nào cả. Con hồ ly đi đằng trước, ba
bước lại chuyển một phát, hai vòng lại lượn một cái, chạy vào một cái hạn
câu, lại chui đầu tiếp vào một cái hang đất. Tôi quả thực không đoán ra
được ý đồ của nó, trong lòng do dự một hồi, không dám tùy tiện theo vào,
nhưng liền phát hiện từng cặp mắt xanh lét thoắt ẩn thoắt hiện trong bão
tuyết ngày một nhiều lên, bầy sói Siberia đã vây lại gần.
Tuyền béo ném bó củi khô vẫn ôm trong tay nãy giờ quăng xuống đất,
tháo bỏ khẩu súng trường bán tự động đeo trên lưng, mở cái lưỡi lê lá lúa
sáng lấp lánh ở đầu họng súng ra. Cậu ta bảo Tiêm Quả và Lục Quân cầm
đèn pin cỡ lớn chiếu lên phía trên đỉnh địa câu, chỉ cần có con sói nào thò
đầu ra, hắn sẽ đâm mạnh lưỡi lê lên, xiên chết từng con một, chết một con
là bớt đi một mối nguy hiểm.