trung” này. Chúng đương muốn dẫn anh về sân bay của chúng, bắt sống
anh. Anh đã thấy bạn anh là Đôchiarengô, anh hùng Liên Xô, chỉ huy một
phi đội bắt sống một máy bay thám thính Đức giống như vậy. Anh chợt nhớ
lại hình ảnh phi công tù binh, xuống sân mặt tái xám và xanh ngắt, chân đi
ngã xiêu, ngã tới. Anh kiên quyết:
- Không thể nào để chúng lượm mình? Không thể để chúng tóm được!
Anh cố chạy trốn, nhưng vô ích. Máy bay Đức xả súng liên thanh bắn
đón đường mỗi khi thoáng thấy anh có ý định bỏ chạy. Hình ảnh tù binh hồi
nãy lại hiện ra trước mắt anh với bộ mặt khiếp nhược, răng run lập cập.
Trông bộ mặt hãi hùng như con thú, nhục nhã quá!
Mêrétxép nghiến răng, nhấn “ga” bổ nhào xuống mong luồn được xuống
dưới đoàn máy bay chắn anh. Quả nhiên, anh bay ngoài vòng bay. Nhưng
bọn Đức cũng kịp thời nổ cò. Máy xộc xệch và rồ từng hồi lục cục. Cả
chiếc máy bay rung lên như cảm sốt, sắp chết.
Trúng đạn, anh còn kịp bay chúi mũi vào đám mây trắng để khỏi bị truy
kích. Nhưng như thế có ăn thua gì không? Máy bay bị thương rung lên, phi
công cảm thấy nó rung lên tận cơ thể mình, chẳng khác nào như máy bay
hấp hối đã chuyển cơn bệnh vào người anh.
Máy hư chỗ nào? Máy còn bay bao lâu? Bình xăng còn nổ không?
Những câu hỏi dồn dập, không phải là suy nghĩ mà chỉ là cảm giác thoáng
qua. Anh cảm thấy mình ngồi trên thùng thuốc súng có mồi lửa đương
cháy, chỉ chờ nổ.
Anh lái quay về phía trận tuyến của mình để mong nhờ bàn tay đồng đội
chôn cất.
Tai nạn tới mau. Máy sặc một cái rồi ngưng. Như từ đỉnh cao nhảy
xuống, máy bay cắm xuống đất. Dưới anh, rừng cây mênh mông như biển
biếc...
“Thà thế này còn hơn bị bắt sống”. Anh còn kịp nghĩ như thế khi cánh
máy bay chấm sát vô rừng cây. Như con thú, rừng cây nhảy vồ lấy anh.
Làm theo linh giác, anh tắt điện. Có tiếng động long trời. Thế là trong nháy
mắt anh cảm thấy như rơi trong bể nước đen xì, sâu thẳm.