Cappy tiếp lời Chi. “Vì vậy tôi đưa tấm hình của tên giết người lên sát
mặt ông ấy và rồi ông ta nói ‘Gã này hả? Tôi từng gặp hắn mỗi buổi sáng
khi hắn mua báo. Hắn là tên giết người sao?’
Jacobi gọi cô phục vụ lại gần, “Mang cho tôi một cái bánh ham-bơ-gơ cỡ
trung, thịt chín vừa thôi và khoai tây chiên nữa nhé”.
Chi đi sâu vào chi tiết hơn.
“Rồi ông chủ tiệm thuốc lá nói rằng ông ta không biết tên kẻ bị tình nghi
nhưng ông ấy nghĩ là hắn từng ở đối diện bên kia đường, số 1513 Vallejo”.
“Vì vậy chúng tôi đến đó...” Cappy nói.
“Trời, tha cho tôi đi, gì mà dài dòng thế'’, Jacobi nói. Ông ta chống hai
khuỷu tay xuống bàn, đưa lòng bàn tay ấn lấy hai hốc mắt, tỏ vẻ nóng lòng
chờ câu chuyện đưa đến một kết quả nào đó hoặc đến hồi kết thúc cho
nhanh.
“Và chúng tôi có được một cái tên”, Cappy chốt lại. “Người quản lý tòa
nhà 1513 Vallejo đã nhận dạng được người trong hình một cách chính xác.
Nói với chúng tôi rằng kẻ tình nghi đã bị đuổi đi cách đây hai tháng, sau khi
hắn bị mất việc”.
“Khua chiêng gõ trống lên ăn mừng đi nào”, Chi nói. “Hắn tên Alfred
Brinkley”.
Thật không hay khi thấy nét thất vọng trên gương mặt của McNeil và
Chi, nhưng tôi phải ngắt ngang họ.
“Cám ơn Paul. Chúng tôi biết tên hắn rồi. Thế anh có tìm ra được nơi
hắn từng làm việc không?”
“Đúng rồi, trung úy. Hiệu sách, à, đại siêu thị sách có thương hiệu Sam
nằm trên đường Mason”.
Tôi quay qua Conklin. “Richie, sao trông anh giống Hội viên danh dự
quá vậy? Anh đã tìm được gì?”.
Nãy giờ Conklin ngồi dựa lưng vào ghế, cố cân bằng bằng mấy chân ghế
sau, rõ ràng là đang thích thú nghe mấy lời bông đùa. Lúc này thì chân ghế
trước sụp xuống nên anh phải dựa hẳn vào bàn. “Brinkley không có giấy
gọi nhập ngũ. Nhưng... hắn phục vụ trong quân đội, làm việc ở pháo đài
trong hai năm. Xuất ngũ do bị thương vào năm 1994”.