*6. Bắc Bình vương
Bắc Bình vương tên là Nguyễn Văn Huệ, người làng Tây Sơn tỉnh Qui Nhơn, em vua Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc.
Bắc Bình vương tiếng to như chuông mắt sáng như điện, sức khỏe tuyệt trần, mỗi khi lâm trận, chỉ hai tay cầm hai dùi đồng, phi ngựa
xông vào giữa trận, hàng mấy nghìn người cũng không địch nổi. Lại có trí mưu quyền biến, mẹo mực như thần.
Khi trước giúp anh khởi loạn ở trong Qui Nhơn, về sau giữ từ Thuận Hóa giở ra, tự xưng là Bắc Bình vương.
Trong năm Bính Ngọ thời Cảnh Hưng (1786), đem quân ra Bắc Hà, mưu trừ họ Trịnh để giúp nhà Lê. Giết được Trịnh Khải, lập vua Chiêu
Thống nhà Lê, rồi đem binh về đóng ở Phú Xuân, mà sai bộ tướng và Võ Văn Nhậm đóng quân ở Nghệ An, để rình tin tức ngoài Bắc Hà.
Năm sau, nhân có Nguyễn Hữu Chỉnh muốn giúp vua Chiêu Thống để cự nhau với mình, mới sai Văn Nhậm đem quân ra đánh Hữu
Chỉnh, đuổi mãi đến núi Tam Tùng bắt được, giải thây giết chết. Rồi lưu Ngô Văn Sở cùng Ngô Nhậm ở lại trấn thủ Thăng Long, lập Sùng
Nhượng công Duy Cẩn giám quốc.
Vua Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu. Vua Càn Long nhà Thanh sai Tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị đem quân lưỡng Quảng
cùng Vân, Quí hơn 20 vạn chia làm hai đường kéo sang.
Ngô Văn Sở đem quân lui vào đóng ở Tam Điệp, Biện Sơn, đưa tin vào cáo cấp.
Bắc Bình vương được tin cả giận nói rằng: “Những quân Ngô cẩu này sao dám dông đỡ làm vậy!” Bèn sai hạ lệnh khởi binh, các tướng
sĩ đều xin trước chính vị hiệu, để hệ nhân tâm, rồi sẽ đem quân ra. Ngày hôm 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Bắc Bình vương lên ngôi
Hoàng đế, kỷ nguyên là Quang Trung. Rồi khởi hết cả quân Thuận, Quảng, Thanh, Nghệ đem ra Bắc Hà, ngày 20 tháng chạp, kéo đến núi
Tam Điệp, khao thưởng quân sĩ, truyền cho ba quân tạm làm lễ tết nguyên đán, hẹn đến mồng 7 tháng giêng, ra thu phục được thành
Thăng Long rồi sẽ mở tiệc khai hạ. Tức thì chia quân các đạo kéo ra. Mồng ba tháng giêng năm Kỷ Dậu (1788) kéo quân đến vây đồn Hạ
Hồi, (bây giờ thuộc phủ Thường Tín, Hà Đông), truyền loa gọi dạ ầm ầm, đến hàng vạn người; quân Tàu trong đồn sợ run cầm cập, bỏ
tan mà chạy, bắt được giết sạch, không còn tên quân Tàu nào chạy lọt mà về báo Thăng Long được nữa.
Vua Quang Trung thừa thắng đánh tràn đến đồn Ngọc Hồi, Văn Điển, Yên Quyết, giết được tướng Tàu là Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tổng
binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, Tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống. Tôn Sĩ Nghị đóng quân ở bến sông Nhị, nghe tin báo
vội vàng lên ngựa qua phù kiều chạy sang bắc, quân sĩ tranh cầu đổ xô nhau mà chạy, cầu đổ, chết hàng mấy vạn người, nước sông Nhị
đến nỗi không chảy đi được; hôm ấy là mồng 5 tháng giêng, vua Quang Trung mặc áo chiến bào xông pha trong trận, thẳng vào thành
Thăng Long, mà áo chiến bắt hơi súng sám đen cả lại. Vua Quang Trung lại sai quân đuổi theo quân Tàu đến cửa Nam quan tỉnh Lạng
Sơn, nói phao lên rằng: sắp kéo tràn qua cửa quan đuổi giết, để theo tìm vua Chiêu Thống. Người Tàu cả sợ, già, trẻ, lớn, bé, cõng nhau
mà chạy, từ cửa Nam Quan giở về bắc, vài trăm dặm, vắng ngắt, không còn có hơi khói lửa người ở.
Vua Quang Trung đánh được trận ấy, sai người nhặt thây quân Tàu chất lại thành đống, rồi đắp đất lên, tục truyền là gò Đống Đa ở