Thái Tổ cười lưu hai người ở lại, mưu việc khởi binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi
thần.” Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là sự trời định, đồn rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau kéo
theo về với ông ấy, quân thế mỗi ngày một thịnh.
Đến năm Mậu Tuất, mới bắt đầu ra đánh nhau với quân nhà Minh, ông Nguyễn Trãi bàn mưu lập kế giúp vua Thái Tổ đánh hơn 20 trận.
Năm Bính Ngọ, quân ta thắng trận, tiến sát đến Đông Đô, tướng nhà Minh là Vương Thông giữ vững trong thành. Nhà Minh lại sai An
Viễn hầu là Liễu Thằng và Kiềm quốc công là Mộc Thạnh chia quân làm hai đường sang cứu Đông Đô. Thái Tổ đón đánh ở núi Mã An,
chém được Liễu Thăng, và bắt sống được bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn 300 người, Mộc Thạnh phải trốn về nước, Vương Thông mở cửa
thành ra hàng.
Tự bấy giờ hai nước lại thông hiếu, nội là tờ giao thiệp với Tàu, do tự một tay Nguyễn Trãi cả.
Vì có công được phong quốc tinh, gọi họ là Lê, mà thăng lên làm Vinh lộc đại phu nhập nội hành khiển, coi cả việc trong ba quân và
được phong là Tế văn hầu.
Trần Nguyên Hãn thì được phong làm quốc công, đến khi mất, lại được phong làm thành hoàng, bây giờ còn đền thờ ở làng Hoắc Xa.
Nguyễn Trãi văn chương hùng dũng, có khí lực, phàm các bài như là văn “Bình ngô đại cáo” cùng là văn bia “Lam k inh thần đạo”, có
chép vào bộ thực lục, là tự tay ông ấy soạn ra cả.
Tính ông ấy điềm đạm, không ham mê danh lợi, thường có chí muốn từ chức về nhà. Ông ấy có một trại riêng ở tỉnh Bắc, gọi là Tiêu
Viên. Đến thời vua Thái Tôn, Nguyễn Trãi trí sĩ về ẩn ở trại ấy. Cuối đời Thiệu Bình, vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại
Tiêu Viên, Nguyễn Trãi đi vắng, có người nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua mất, nịnh thần cho là Thị Lộ giết
vua, vì thế cả nhà ông Nguyễn Trãi phải chịu tội chu di.
Khi trước đánh nhau ở núi Mã An, Nguyễn Trãi bắt được thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc, Hoàng Phúc nguyên giỏi nghề địa lý,
khi ở nước Nam, bao nhiêu chỗ kiểu đất hay, đã biên ký lấy cả. Bấy giờ phải bắt, Nguyễn Trãi có ý khinh bỉ. Hoàng Phúc cười bảo rằng:
- Mả tổ nhà tôi có Xá văn tinh, chẳng qua chỉ phải nạn trong năm ngày là cùng, không đến nỗi như ông có đất phải chu di tam tộc.
Bấy giờ cũng cho lời ấy nói xằng, về sau quả nhiên Hoàng Phúc được tha về, mà Nguyễn Trãi thì mắc nạn, mới biết lời ấy là nghiệm.
Tục truyền khi ông Nguyễn Trãi chưa đỗ, dạy học ở làng Nhị Khê, thường có sai học trò dọn cỏ một cái gò ở ngoài đồng để làm trường
dạy học. Đêm hôm trước, mơ thấy một người đàn bà vào kêu rằng: “Tôi, mẹ yếu con thơ, xin ông khoan cho ba ngày để tôi đem con tôi đi
chỗ khác, rồi ông sẽ sai dọn cỏ.” Sáng sớm, thức dậy ra đồng xem thì học trò đã dọn sạch rồi, và bắt được hai cái trứng rắn.
Ông Nguyễn Trãi hỏi học trò thì nói rằng:
- Ban nẫy con thấy con rắn ở trong đám cỏ rậm, đánh nó đứt đuôi mà chạy mất, chỉ bắt được hai cái trứng ở đây.