NAM HẢI DỊ NHÂN LIỆT TRUYỆN - Trang 4

Chương thứ I

CÁC BẬC ĐẠI ANH KIỆT

1. Trưng Vương

Xưa về thời nội thuộc nhà Đông Hán, ở huyện Mê Linh, đất Phong Châu (tức huyện An Lãng, tỉnh Phúc Yên bây giờ), có quan Lạc

tướng họ Hùng sinh được hai người con gái, chị tên là Trắc, em tên là Nhị; hai chị em vốn có tiếng anh hùng.

Chị lấy chồng tên Thi Sách, về dòng dõi vua Hùng Vương, làm quan châu ở bộ Chu Diên (bây giờ là phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên).

Quan Thái thú bấy giờ tên là Tô Định, tính tham tàn hay hại người, thấy Thi Sách lấy được bà ấy, sợ về sau có mưu phản gì chăng, mới

kéo binh vây thành Chu Diên, giết mất Thi Sách.

Bà ấy tức giận lắm, cùng với em là Nhị chiêu binh tập mã để đánh báo thù cho chồng. Các hào kiệt trong nước ai cũng có bụng oán Tô

Định, tranh nhau kéo đến theo bà ấy; không bao lâu được hơn 10 vạn quân, bà ấy mới mang quân đến đánh Tô Định. Tô Định chống giữ
không nổi, phải chạy về bể Nam Hải rồi lẻn về Tàu. Bà ấy thừa thế đánh tràn, hạ được 56 thành ở xứ Lĩnh Nam (thuộc hạt Quảng Đông,
Quảng Tây, nước Tàu); mới đổi là họ Trưng, tự lập lên làm vua, gọi là Trưng Vương, bấy giờ là năm Canh Tí niên hiệu Kiến Võ thứ 16 đời
vua Quang Vũ nhà Hán, (sau Thiên Chúa 40 năm).

Bà Trưng Vương làm vua được 3 năm, vua Quang Vũ sai quan Phục Ba tướng quân là Mã Viện đem binh sang đánh. Bà Trưng Vương

đem quân chống nhau với quân Tàu ở hồ Lãng Bạc (tức hồ Tây, Hà Nội). Mã Viện tài kiêm văn võ, mà lại khéo dùng binh, đánh nhau mấy
trận thì quân của bà Trưng Vương cũng thua cả, mới lui về giữ Cấm Khê (bây giờ thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây). Bà ấy nghĩ mình
là quân ô hợp, không thể đương được với quân Mã Viện, mà hàng thì bà ấy cũng không chịu hàng. Sau mới rút quân về đến xã Hát Môn,
huyện Phúc Lộc (tức huyện Phúc Thọ, thuộc Sơn Tây), thì bà ấy bức chí nhảy xuống sông Hát Giang tự tận.

Em là Trưng Nhị thấy chị đã liều mình xuống sông, cũng liều mình xuống theo chị nốt.

Than ôi! Một đôi nữ anh hùng nước Nam, tuy vì tài liễu yếu đào tơ, không làm được công nghiệp oanh oanh liệt liệt, nhưng biết giận kẻ

tàn ác, khởi binh đánh đuổi đi, cũng lừng lẫy được một thời mà lưu danh thiên cổ, gây dựng nền độc lập cho đời sau; khá khen thay, khá
khen thay!

Từ lúc hai bà ấy xuống sông, rồi hóa ra hai người bằng đá, nổi lênh đênh trên mặt nước trôi đi. Các làng quanh sông thấy vậy, tranh

nhau ra khấn để vớt về thờ, nhưng chỉ có làng Đông Nhân ở huyện Thanh Trì (bây giờ thuộc về tỉnh Hà Đông) vớt được, mới lập đền thờ
ở bãi làng ấy. Dân xã Hát Môn thấy sự thiêng làm vậy, cũng lập đền thờ vọng ở bên sông.

Đến thời vua Anh Tôn nhà Lý, chỗ bãi Đồng Nhân lở gần đến miếu thờ. Vua sai làng Hưng Viên bên trong đê, ra đền rước tượng hai bà

ấy vào, rồi vua ban tiền bạc cho dân lập miếu mà thờ, phong sắc là “Trinh Linh chi phu nhân.” Đền ấy bây giờ vẫn còn, tục gọi là đền
Hai bà.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.