hơn: kiểm soát lãi suất. Trong gần 100 năm, Hệ thống Dự trữ Liên bang (về
lý thuyết đây là một ngân hàng sở hữu tư nhân, nhưng thực tế nó là cánh
tay nối dài của Bộ Tài chính Mỹ) đã xác định mức lãi suất cơ bản, làm cơ
sở cho toàn bộ hệ thống lãi suất.
Với việc tăng hay giảm lãi suất Fed funds
, Hệ thống Dự trữ Liên bang
(Fed) không quy định mức lãi suất cụ thể khi một ngân hàng nào đó cho
vay ra, nhưng họ thực sự tác động tới toàn bộ thị trường. Các ngân hàng
luôn áp dụng lãi suất cho vay cao hơn đối với khách hàng, so với khi họ
vay tiền từ Fed. Cho nên, khi Fed tăng hay giảm lãi suất, cá nhân và doanh
nghiệp sẽ phải chịu mức lãi suất khi đi vay cao hơn hay thấp xuống.
Fed được trao thẩm quyền này để giúp nền kinh tế vận hành ổn định
trong cả những giai đoạn tốt đẹp cũng như khó khăn, về lý thuyết, trí tuệ
tập thể của các nhà kinh tế tại Fed sẽ giúp nền kinh tế luôn đi đúng hướng,
qua việc quyết định lãi suất tối ưu vào bất kỳ thời điểm nào một cách kịp
thời.
Ví dụ, Fed có thể vực dậy nền kinh tế đang suy thoái bằng cách giảm lãi
suất đến mức các doanh nghiệp và người tiêu dùng cảm thấy muốn vay
tiền! Trong thời kỳ kinh tế phát triển, khi sự tự tin thái quá thường dẫn đến
những hành động ngu ngốc trong kinh doanh, Fed sẽ hành động ngược lại,
tăng lãi suất đến mức nào đó sao cho những người đi vay phải cân nhắc cẩn
thận trước khi vay tiền từ ngân hàng.
Nhưng hệ thống này có hai khiếm khuyết cực kỳ lớn.
Thứ nhất, người ta đã giả định rằng một nhóm nhỏ vài chuyên gia ở Fed
có thể đưa ra những quyết định tốt hơn hàng triệu cá nhân ngoài xã hội, với
những quyết định của riêng từng người (cũng được gọi là “thị trường”) về
mức lãi suất phù hợp. Nhưng, như người ta từng nói, Fed chẳng có quyền
lợi liên quan gì ở đây cả! Fed không huy động tiết kiệm, mà cũng chẳng
chịu thiệt thòi gì khi các khoản cho vay trên thị trường trở nên xấu đi. Các
cá nhân tiết kiệm tiền, còn lợi nhuận của ngân hàng phụ thuộc vào sự quản
lý khôn ngoan khoản tiết kiệm đó. Không có mối liên hệ này, việc cho vay
chắc chắn không hiệu quả.