13
Diện hình và Tổ chức
ÔNg bìNh vÔi
Ở trên có nói tới các bình vôi đặt ở gốc đa bờ giếng cũng
như gốc đa đầu làng.
Đây là phong tục dân quê.
Dân Việt nam thường ăn trầu, và mỗi miếng trầu gồm một
miếng lá trầu không, có quệt chút vôi cuộn tròn lại, công việc
này gọi là têm trầu, một miếng cau một miếng vỏ cây.
Do sự ăn trầu của toàn dân Việt nam trước đây nên mỗi nhà
đều có một bình vôi, và tục còn cho rằng bình vôi tượng trưng
cho quyền nội tướng của bà nội trợ nên được gọi tên là ông
bình vôi.
Bình vôi đựng vôi, vôi trên mép khô dần vì mỗi khi
lấy vôi ra nhiều, người ta lại quệt vào mép bình. Sau một thời
gian, miệng bình vôi nhỏ dần, cho đến ngày bị lấp hẳn và bình
vôi không dùng được nữa.
Bình vôi này, người ta không đem vứt đi, vì xưa nay vẫn được
tôn trọng là ông bình vôi, mà người ta đem đặt tại miếu thờ, tại
gốc đa, gốc si, gốc đề, nơi có thờ, hoặc tại bên các đình chùa.
Do đó các cây đa đầu làng, dân làng thường mang những
bình vôi cũ tới để, và có người lại đem buộc hẳn lên các rễ đa
treo lủng lẳng.
lũy tre làNg
cây đa cách lũy tre làng đến ngoài chục thước, những cây tre
ngả đầu xuống, những cành đa như vươn tay ra, đôi bên cũng
còn cách nhau một quãng khá xa.
Lũy tre làng tôi giống bất cứ lũy tre làng nào, bao bọc chung
quanh làng, hai rặng tre hai bên đi từ cổng đầu làng tới cổng
cuối làng.
Tre già thì măng mọc, luôn luôn lũy tre lúc nào cũng xanh
tốt, và chịu đựng đủ nắng mưa gió rét.
Thực hiện ebook: www.hocthuatphuongdong.vn