316
317
đã tham khảo bố cục rồng mây,
sóng nước của Mãng bào Trung
Quốc giai đoạn cuối Minh đầu
Thanh. Tuy nhiên, Mãng bào của bá
quan triều nguyễn còn được thêu
hình phượng, kỳ lân và rùa, đồng
thời có tên gọi là áo bào Tứ linh.
năm 1832 vua Minh Mạng ra chỉ
dụ, “xưa nay áo bào của quan tam
phẩm trở lên, tục gọi là áo bào Tứ
linh, có hình rồng nằm trong số đó
[…] cách gọi như vậy đều không phù
hợp, bởi hình phượng, lân, rùa chỉ
là hình phụ họa mà thôi, chỉ cần gọi
Mãng bào là được.”
(1)
Mặt khác, trên
lưng áo bào triều nguyễn còn bảo
lưu hai cánh lá phú hậu thời Minh
(nhà Lê Trung hưng cũng mô phỏng dạng thức
này)
, phụ kiện này không xuất hiện trên áo bào của các quan nhà Thanh
Trung Quốc.
ngoài ra, khác với quy chế áo mão thời Lê Trung hưng, bất kể
Cổn phục, Lễ phục, Triều phục hay Thường phục của vua quan triều
nguyễn đều phối với thường - Kế y, một dạng xiêm áo mặc lót bên trong
1. (Việt) Hội điển - Q.78. Tr.50. Nguyên văn: 諭向來三品以上袍俗呼四靈袍則龍在其中[…]均屬不合。
鳳、麟、龜係是附和,只須名為蟒袍
Bối lặc trở xuống tới các
quan văn võ tam phẩm,
quận quân ngạch phò,
phụng quốc tướng quân,
nhất đẳng thị vệ đều dùng
áo bào thêu 9 hình mãng
bốn móng. Quan văn võ
tứ, ngũ, lục phẩm, phụng
ân tướng quân, huyện
quân ngạch phò, nhị đẳng
thị vệ trở xuống dùng áo
bào thêu 8 hình mãng bốn
móng. Quan văn võ thất, bát, cửu phẩm, quan vị nhập lưu dùng áo bào
thêu 5 hình mãng bốn móng. Vạt áo, tôn thất, thân vương trở xuống đều xẻ
bốn vạt, bá quan văn võ chỉ xẻ hai vạt trước sau.”
(1)
Tại Việt nam, quy chế
Mãng bào được áp dụng làm Triều phục cho bá quan văn võ Đàng Trong
kể từ năm 1744 sau cải cách của chúa nguyễn Phúc Khoát. Đại Nam thực
lục ghi: “Chúa […] châm chước chế độ các đời, định Triều phục văn võ. Văn
từ quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo, võ từ chưởng dinh đến cai đội, mũ
sức vàng bạc, áo dùng
Mãng bào hoặc gấm
đoạn theo cấp bậc.”
(2)
Lê Quý Đôn cũng ghi
nhận sau cải cách này,
các quan Đàng Trong
“dùng Mãng bào thủy
ba
(hoa văn sóng nước)
, mũ
mão dùng vàng bạc
trang sức”
(3)
.
Mãng bào triều
nguyễn nhìn chung
1. (Trung) Khâm định Đại Thanh hội điển - Q.47. Nguyên văn: 蟒袍,藍及石青諸色隨所用,片金緣。親
王、郡王,通繡九蟒。貝勒以下至文武三品官、郡君額駙、奉國將軍、一等侍衛,皆九蟒四爪。文
武四五六品官、奉恩將軍、縣君額駙、二等侍衛以下,八蟒四爪。文武七八九品、未入流官,五蟒
四爪。裾,宗室親王以下皆四開,文武官前後開
2. (Việt) Đại Nam thực lục. Tập I. Tr.153.
3. (Việt) Phủ biên tạp lục. Nguyên văn: 貴者用蟒袍水波,其帽飾以金銀
Mặt trước và mặt sau của Mãng bào và Hoa bào triều
Nguyễn. (BAVH).
1. Mãng bào (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Ảnh: TQĐ); 2. Mãng
bào màu tía của quan Chính nhất phẩm và Bổ phục Vân nhạn
của quan ngũ phẩm (Bảo tàng Quân sự Pháp. Ảnh: Nguyễn Như
Đan Huyền).
Xiêm - thường của quan triều Nguyễn.
Các quan võ mặc Triều phục; Một trong ba vị
Tam khôi triều Nguyễn mặc áo Hoa bào, cài
hoa bạc trên mũ. Quan nhị phẩm mặc Mãng
bào và quan tứ phẩm mặc Giao bào. (Ảnh:
Albert Kahn).