Bên cạnh thời gian, các bức họa của Monet còn đưa ra những cách tân khác
liên quan đến bản chất của không gian và ánh sáng. Monet là một trong những
họa sĩ đầu tiên của truyền thống hậu hàn lâm đã không cần tới hướng, một yếu
tố rất quan trọng của các vectơ định hướng Euclid. Thông thường, mỗi bức
tranh là một mặt phẳng chứa đựng một sự sắp xếp, pha trộn các mảng màu
khác nhau. Người xem tranh cần có những manh mối về thị giác để giải mã
được sự định hướng hay hướng Cơ bản của bức tranh. Không gian Euclid phụ
thuộc vào những từ miêu tả như “đỉnh”, “đáy”, “phải”, “trái”- những vectơ của
hình học phẳng. Hình học khối (tức hình học không gian) thêm vào khái niệm
gần và xa. Các họa sĩ đã hoàn thiện cái vectơ gần-xa ấy khi họ phát hiện ra
phép phối cảnh.
Từ thế kỉ mười lăm đến thế kỉ hai mươi, văn minh phương Tây hoàn toàn bị
khuôn vào việc chỉ sử dụng các tọa độ của Euclid. Rồi sau đó các hạt giống
nghi ngờ tính bất khả xâm phạm của quan niệm Euclid về hình học bắt đầu nảy
nở trong toán học. Tuy nhiên, các nghệ sĩ, mặc dù không biết gì về những ngờ
vực ấy, lại đã tìm ra được một con đường riêng để thể hiện chúng bằng thị
giác.
Sau khi lui về khu vườn của mình ở Giverny vào năm 1881, Monet bắt đầu
tập trung vào việc diễn tả mặt nước của một cái ao (Hình 8.8). Dựa trên những
biến cải của Manet về đường chân trời, Monet đã đẩy góc nhìn của người xem
lên cao mãi, cho đến khi đường chân trời vuột ra nằm ở một nơi nào đó ngoài
nền vải. Rồi khác với Manet, ông giảm các thành tố trong tranh xuống còn có
hai: những bông hoa súng và mặt nước. Hình ảnh trong tranh của ông trong
những năm sau này càng ngày càng lan nhòa vào nhau. Những gì ở trong nước,
ở trên mặt nước hoặc soi bóng trên đó đã trở nên rất khó phân biệt đối với
người xem cho đến khi đối với họ, chúng đã trở thành một sự tiếp diễn liên tục
các sắc màu và hình ảnh. Cuối cùng, trong những bố cục thử thách các giới hạn
của chủ nghĩa hiện thực và tiếp cận đến biên giới của nghệ thuật trừu tượng,
hình ảnh trong tranh của Monet đã trở nên mờ nhòa đến mức mọi manh mối thị
giác để xác định phương hướng đã hoàn toàn biến mất. Cùng với các họa sĩ
trừu tượng thời kì đầu tiên là Kadinsky, Malevich và Mondrian, Monet có thể
coi là đã tạo ra tính mơ hồ thể hiện rất rõ trong tranh: người ta có thể vô tình
treo lộn ngược một số bức tranh thời kì cuối của ông mà vẫn thấy không sao