lên điều hành chính quyền. Nó chọn lựa những cậu bé ngoài bãi
chăn cừu và trên đồng ruộng để đưa lên làm cận thần và làm phò
mã; nó chọn những thanh niên trẻ có tổ tiên mang những cái tên
Cơ Đốc giáo đã nhiều thế kỷ để cai trị những vùng lãnh thổ vĩ đại
nhất của tiên tri Muhammad, cùng với các chiến binh và tướng
lĩnh của những đội quân vô địch mà niềm hạnh phúc nhất của họ
là hạ bệ Cơ Đốc giáo và tôn vinh Thổ Nhĩ Kỳ. … Hoàn toàn bất
chấp những đạo lý cơ bản được gọi là “bản năng tự nhiên của con
người”, những định kiến tôn giáo và xã hội vẫn được coi là sâu
xa như bản thân cuộc sống, hệ thống Ottoman cướp những đứa
con khỏi tay cha mẹ chúng mãi mãi, ngăn cản mối quan tâm giữa
các thành viên trong gia đình suốt những năm tháng tuổi trẻ,
không đảm bảo cho họ quyền sở hữu của cải, không đảm bảo là
các con họ sẽ được hưởng lợi ích từ sự thành công và hy sinh của
họ, cất nhắc và vùi dập họ bất kể tới tổ tiên của họ là ai, danh
hiệu của họ là gì, dạy cho họ những luật lệ, đạo lý và tôn giáo kỳ
quặc, và chẳng bao giờ lưu ý họ rằng một lưỡi gươm giơ cao trên
đầu có thể là kết cục xảy ra bất cứ lúc nào của một sự nghiệp
rạng rỡ trên con đường chinh phục vinh quang của con người”.
Sự ngăn cấm tầng lớp quý tộc kế thừa quyền tự do trong xã hội
Ottoman của nhà cầm quyền, có lẽ là phần kỳ quặc nhất của xã hội này đối
với chúng ta, đã được minh chứng; vì ngay khi Hồi giáo tự do tìm được
đường thâm nhập vào xã hội này, trong những năm cuối của triều đại
Suleymān, thì nó đã bắt đầu sụp đổ và Đế chế Ottoman bước vào giai đoạn
suy tàn.
Trong suốt thời kỳ hệ thống quân đội nô lệ này còn đứng vững, các
thành viên mới đến từ nhiều nguồn cung cấp ngoại đạo khác nhau: từ bên
kia biên giới với những nô lệ bắt được trong chiến tranh, mua từ chợ nô lệ
hoặc từ những người tự nguyện tòng quân; và từ bên trong đế chế qua
những đợt tuyển mộ cưỡng bức trẻ em định kỳ. Các tân binh sau đó sẽ được