nhất vô nhị của Đế chế Ottoman cũ bằng cách dựng nên một kiểu mẫu theo
tiêu chuẩn Tây phương trong hình thể của một nhà nước trung ương Thổ
Nhĩ Kỳ. Với kiểu mẫu phổ biến này, từ đây về sau - cũng như các hậu duệ
của người Do Thái phục quốc thuộc nền văn minh Syria cổ láng giềng và
hậu duệ của người Ireland thuộc nền văn minh Viễn Tây - những người
thừa kế nền văn minh bị giam hãm Ottoman mãn nguyện sống cuộc đời
bình thường với tư cách những người đã được cởi bỏ tình trạng của “người
được chọn”.
Còn về bản thân hệ thống “quân đội nô lệ”, nó đã bị “hạ sát” một cách
không thương xót - số phận đương nhiên dành cho một con chó chăn cừu
nổi điên quay ra khủng bố bầy cừu - bởi vua Mahmūd II trong năm 1826,
vào khoảng giữa cuộc chiến Hy Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ, 15 năm sau khi chế độ
tương tự của người Mamlūk bị tiêu diệt bởi tên tuổi đôi lúc là đồng minh và
đôi khi là địch thủ của vua Mahmūd, đó là Mehmed ‘Ali xứ Ai Cập.
(3) NGƯỜI SPARTA
Chế độ của Đế chế Ottoman có lẽ đã gần đạt tới lý tưởng của một nền
cộng hòa theo thuyết Plato, nhưng điều chắc chắn là bản thân Plato, khi
hình dung ra xã hội không tưởng của mình, đã nghĩ tới chế độ của người
Sparta trong đầu; và bất chấp sự khác biệt về tầm vóc giữa các thể chế
Ottoman và Sparta, vẫn có một sự tương đồng mật thiết giữa “các tổ chức
đặc quyền” mà các cộng đồng này tự trang bị để thực hiện kỳ tích của nó.
Như chúng ta đã biết từ ví dụ đầu tiên được liệt kê trong nghiên cứu
này (
xem trang 4
), người Sparta đã thực hiện một phản ứng đáp trả đặc biệt
trước thách thức phổ biến xảy ra với mọi chính quyền Hy Lạp cổ trong thế
kỷ thứ tám trước CN, khi dân số của xã hội Hy Lạp bùng nổ vượt quá khả
năng của các phương tiện sinh kế. Giải pháp thông thường dành cho thách
thức này là quá trình thực dân hóa: sự bành trướng lãnh thổ của xã hội Hy
Lạp cổ bằng cách khám phá các vùng đất mới bên kia đại dương rồi chinh
phạt và định cư trên lãnh thổ của những người “rợ” địa phương. Và giải
pháp này đã được chứng minh là đơn giản do khả năng chống cự kém hiệu