giáo. Chiến thắng đáng kinh ngạc của đời sống tôn giáo lỗi thời trong nền
văn minh Ấn Độ mai một từ lâu cho thấy mức độ thanh thế của đạo Hồi
trong lòng dân du mục lai Âu Á trong hai thế kỷ trôi qua kể từ thời của
Timur.
Nếu Timur không quay lưng lại với dân lai Âu Á và đánh Iran năm
1381, mối quan hệ hiện tại giữa người Transoxania và người Nga có lẽ đã
khác. Nước Nga ngày nay có lẽ đã thuộc đế quốc rộng lớn chẳng kém gì
Liên Xô cũ nhưng có trọng tâm khác hẳn – Đế quốc Iran trong đó
Samarqand sẽ cai trị Matxcova, chứ không phải Matxcova cai trị
Samarqand. Hình ảnh tưởng tượng này có vẽ lạ lẫm vì tiến trình sự kiện
trong 550 năm qua đã đi theo hướng khác, song ít nhất bức tranh sẽ thay
đổi nếu chúng ta thay thế tiến trình lịch sử phương Tây trên giả thuyết là
sức mạnh quân sự của Charlemagne không gây tác hại lên nền văn minh
phương Tây cũng giống như Timur đã làm cho Iran. Tương tự, chúng ta
phải hình dung người Magyar nhận chìm người Áo, và người Viking nhận
chìm người Neustria trong bóng tối của thế kỷ 10. Về sau, Đế quốc
Carolingian vẫn còn dưới ách cai trị của người rợ mãi cho đến khi người
‘Osmanli nhảy vào áp đặt sự thống trị xa lạ ít hà khắc hơn vào thế kỷ 14.
Tuy nhiên, hành động hủy hoại lớn nhất của Timur là những việc làm
chống lại chính y. Tên tuổi Timur trở nên bất tử với những việc làm rùng
rợn của y trong tâm trí hậu thế. Đối với bao nhiêu người theo đạo Cơ Đốc
hay đạo Hồi, tên tuổi của Timur có gợi lên hình ảnh người chiến sĩ chống
lại sự man rợ, người đã đưa dân tộc đến chiến thắng gian nan vào cuối cuộc
đấu tranh giành độc lập kéo dài suốt 19 năm hay không? Câu trả lời là
không. Với đại đa số dân chúng, nếu cái tên Timur Lenk hay Tamerlane có
gợi nhớ điều gì, thì đó là hình ảnh của một kẻ cầm quyền theo chủ nghĩa
quân phiệt hiếu chiến, kẻ trong vòng 24 năm đã gây ra những nỗi kinh
hoàng ngang bằng với năm vị vua Assyria cuối cùng gây ra trong 120 năm.
Người ta nghĩ tới con quái vật đã san bằng Isfarain vào năm 1381; đắp
2.000 tù nhân thành một gò cao rồi xây gạch bít lại tại Sabzawar năm 1383;
xếp 5.000 đầu người thành tháp ở Zirih trong cùng năm đó; ném các tù