Giặc thua thảm hại. Cả đất nước mừng vui với chiến thắng
thần kì. Câu chuyện Thánh Gióng là bản anh hùng ca bất tuyệt,
ngợi ca tinh thần chiến đấu bất khuất vì độc lập, tự do của dân
tộc ta trong thuở khai sinh. Người anh hùng làng Gióng là hình ảnh
tuyệt đẹp của nhân dân ta trưởng thành nhanh chóng trong gian lao
vì nạn nước. Cũng như cậu bé làng Gióng, đất nước này, dân tộc này
vừa mới có ý thức thì hai vai đã gánh nặng hai nhiệm vụ: làm ăn và
đánh giặc. Chính vì vậy mà dân tộc ta sớm đã được tôi luyện trong ý
thức dựng nước và giữ nước. Hai mặt cơ bản đó của đời sống xã hội
Việt Nam gắn bó với nhau, thể hiện trong tư thế vừa sản xuất vừa
chiến đấu của người Việt Nam trong lịch sử.
Làng Việt Nam xưa gọi là chạ “chung chạ”, ăn chung ở chạ. Có việc
vui, buồn thì “trình làng trình chạ”. Khi chưa có nước, thì ăn ở với
nhau “trong họ ngoài làng”. Các công xã, các bộ lạc họp thành liên
minh bộ lạc. Liên minh bộ lạc trải qua một thời gian quá độ, dần
dần mang bóng dáng của một Nhà nước sơ khai. Đồ kim loại làm
cho kinh tế tiểu nông ra đời. Giàu nghèo bắt đầu phân biệt: Có mộ
người giàu chôn theo hàng trăm đồ đồng, cả gươm đồng và trống
đồng là những vật tiêu biểu cho quyền uy. Có mộ người nghèo,
chôn theo chỉ vài ba niêu đất. Chế độ của riêng nảy nở. Sang hèn đã
cách biệt. Có đầy tớ nhà giàu (nô tì). Có bình dân (Lạc dân). Có quý
tộc (Lạc hầu, Lạc tướng). Và trên hết có thủ lĩnh tối cao: Hùng
Vương.
Nhưng nước không phủ định làng. Mà họ hàng làng nước xoắn
xuýt với nhau: Việc làng việc nước. Việc làng là việc nước. Việc nước
cũng là việc làng. Và thường thì “phép vua còn thua lệ làng”. Vua
Hùng đã cha truyền con nối. Con trai vua đã gọi là lang, là đạo, con
gái vua đã gọi là mệ là nàng (mị nương) để phân biệt với dân.
Nhưng vai trò người đàn bà, người mẹ vẫn quan trọng: Con dại cái
mang, Cha sinh chẳng tày mẹ dưỡng… Con gái vua - mị nương Tiên