chiếc khăn choàng cùng một màu với những thứ trang bị trên con ngựa, và
nhờ toàn bộ cái gì cũng đỏ này mà người la có thể phân biệt được Đức ông
với hai bạn đồng hành của Ngài, một người thì toàn tím trong khi người kia
toàn lục. Người phi ngựa bên trái ăn vận màu tím là người hầu ngựa, bên
phải có người vận màu lục coi bầy chó săn.
Một người hầu mang theo đôi chim ưng đong đưa trên cái đu người kia
cầm chiếc còi săn, phùng má thổi một cách uể oải rời rạc khi đoàn kỵ sĩ chỉ
còn cách toà lâu đài vài chục bước.
Mọi kẻ bao quanh ông hoàng uể oải này đều uể oải làm những gì cần
phải làm.
Sau hiệu còi, tám gã lính gác cổng đang rong chơi trên chiếc sân vuông
vức của toà lâu đài vội chạy đi tìm vũ khí. Thế là Đức ông oai vệ tiến vào
toà lâu đài.
Khung cảnh thật vắng vẻ.
Đức ông lặng lẽ nhảy xuống ngựa, rảo bước vào phòng để người hầu
thay quần áo; và vì Bà lớn chưa ra hiệu ăn trưa nên ngài nằm duỗi dài trên
ghế đánh một giấc ngon lành như giấc ngủ buổi tối vậy.
Còn tám gã lính hầu thì hiểu rằng nhiệm vụ trong ngày của chúng đến
đây là chấm dứt, chúng bèn rủ nhau nằm ườn trên ghế đá dưới ánh nắng
mặt trời ấm áp. Gã mã phu
dẫn đoàn ngựa vào trong chuồng và ngoại
trừ mấy chú chim đang chíu chít chòng ghẹo nhau trong các bụi cây đinh tử
hoa, người ta có cảm tưởng như vạn vật đều ngủ say như Đức ông vậy.
Khi hồi chuông rung báo hiệu Bà lớn đã trang điểm xong và đang chờ
Đức ông cùng bước vào phòng ăn thì có tiếng vó câu lộp cộp trước cổng
vào.
Kìa! Một chàng kỵ sĩ điển trai.
Đó là một trang thanh niên trông khoảng tuổi hai mươi bốn, hai mươi
lăm, thân hình dong dỏng, cường tráng, khoác trên mình bộ quân phục đẹp
đẽ của thời đó. Bằng đôi tay thon chàng kềm ngựa dừng giữa sân rộng, tháo
chiếc mũ lông dài che gương mặt vừa cương nghị vừa ngây thơ của chàng.
Tiếng ngựa làm bọn lính choàng tỉnh và mau lẹ đứng lên.