tế. Hắn càng lo lắng ra mặt khi Hai Vĩnh yêu cầu hắn cho một giấy chứng
nhận đã giữ tàu của đoàn Việt Nam trong ba ngày. Hắn sợ Hai Vĩnh thưa
lên cấp trên, nhưng Hai Vĩnh đã khéo léo nói cho hắn an tâm.
*****
Hai Vĩnh đi ra Bắc, cô Tư Xóm Cỏ rất lo. Đường đi muôn dặm sơn khê,
băng rừng vượt suối, biết bao giờ tới? Rồi biết bao giờ về?... Đó là chưa kể
đụng địch dọc đường. Càng nghĩ càng lo. Nhưng rồi công việc hàng ngày
giúp cô bớt suy nghĩ vẩn vơ. Kể từ ngày bỏ thành ra Rừng Sác với Chi đội
7, gia đình ông Tám Mạnh sống tập trung theo kiểu đại gia đình xa xưa.
Trong thời bình chuyện này đã hiếm, trong thời chiến lại càng hiếm hơn.
Khi Tây đánh chiếm Cần Giuộc và Nhà Bè, ông Tám ra lệnh cho tất cả
xuống ghe ra bưng. Gánh của ông đông nhất: mười ba người con cộng với
mớ cháu nội, cháu ngoại. Cô Tư vừa lo cho chồng vừa lo cho cha và các
em. Công việc không đơn giản vì trong các có em Bảy Hải và Tám Hà nhất
định bám trụ tiếp tục hoạt động. Bảy Hải là công an còn Tám Hà công tác
thành. Cả hai bắn súng lục rất tài, tiố ngày cứ len lỏi trong dân, tìm dịp ám
sát bọn Việt gian theo Pháp đánh phá cơ sở cách mạng nội thành. Vụ bắn
tên Hiền Sĩ của cô Lan Mê Linh, rồi chiến công diệt tên khâm sai đại thần
Nguyễn Văn Sâm của đồng chí On như khuyến khích Bảy Hải và Tám Hà
thi đua hoạt động.
Ngoài công tác trừ gian diệt tề, hai anh em còn có nhiệm vụ tiếp tế đồng,
chì, gan, sắt, hóa chất để công binh xưởng Chi đội 7 sản xuất lựu đạn cho
các ban công tác thành. Hàng đi, hàng về, Bảy Hải và Tám Hà lên xuống
Rừng Sác như con thoi.
Hoạt động trong lòng địch cực kỳ nguy hiểm, sơ ý một chút là có thể sa
lưới. Cô Tư rất lo cho hai em. Nhưng vài trò của Bảy Hải và Tám Hà rất
cần thiết cho binh công xưởng nên ông Tám và cô Tư đành gác cái lo riêng
để nghĩ đến việc chung.
Ngày Bảy Viễn đầu Tây và chiếm khu Chánh Hưng làm sào huyệt, đóng
đồn lập bót dày đặc, rải chỉ điểm khắp nơi, lùng bắt cán bộ kháng chiến, cô