bằng cách nào và làm sao để trụ lại được. Tôi muốn biết về Zizi còn nhiều
hơn là ông ta biết về bản thân mình”.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đi làm nhiệm vụ?”
“Anh cũng sẽ đi”.
“Tôi quá già và mệt mỏi, không kham nổi những vụ khó khăn nữa đâu”.
“Anh là nghệ nhân theo dõi vĩ đại nhất trong lịch sử Văn phòng, Eli. Tôi
không thể làm vụ này mà không có anh”.
Lavon ngồi dậy phủi tay vào quần. “Cài điệp viên vào giới thân cận của
Zizi al-Bakari? Điên khùng. Xuống đây giúp tôi đi. Chúng ta đang dần hết
ánh sáng”.
Gabriel trèo xuống hố quỳ cạnh người bạn cũ. Cùng nhau, họ đào bới tại
vùng đất cổ xưa cho đến khi bóng đêm buông xuống như một tấm màn đen
che phủ thung lũng.
Khi họ về đến đại lộ King Saul, đồng hồ điểm chín giờ. Lavon nghỉ hưu đã
lâu, nhưng vẫn thỉnh thoảng giảng bài tại học viện và có quyền bước vào
tòa nhà khi ông muốn. Gabriel dẫn anh vào phòng hồ sơ của bộ phận nghiên
cứu, sau đó đi xuống hành lang ảm đạm dưới mặt đất hai tầng. Cuối hành
lang là phòng 456C. Gắn trên cửa là tấm bảng giấy do chính Gabriel viết
tay bằng chữ Do Thái có nội dung: ỦY BAN LÂM THỜIÌ NGHIÊN CỨU
ĐE DOẠ KHỦNG BỐ TÂY ÂU. Anh quyết định hiện tại vẫn giữ nguyên
như vậy.
Anh mở ổ khóa mật mã, bật đèn và bước vào trong. Căn phòng dường như
bị đóng băng theo thời gian. Họ từng đặt vài cái tên cho nó: Cái Kén, Sân
Trong, Cái Thùng. Yaakov, người đến từ Sở Các vấn đề Arập của Shabak,
đã gọi nó là Lỗ Địa Ngục. Yossi bên bộ phận nghiên cứu gọi nó là Ngôi
làng bị nguyền rủa. Đó là vì Yossi đã đọc các tác phẩm kinh điển ở Oxford
nên luôn đưa không khí uyên bác vào công việc của mình, cho dù đôi khi
không cần thiết phải như vậy.
Gabriel dừng lại bên chiếc bàn chung của Dina và Rimona. Những vụ đấu
khẩu triền miên về việc xác định ranh giới bàn ghế của họ đã từng khiến
Gabriel phát điên. Đường phân chia anh gạch chính giữa bàn vẫn còn đó,
cùng với lời cảnh cáo Rimona đã ghi ở phía bên lằn ranh của cô: Lấn qua sẽ