hển và gấp gáp và dù tiếng Tây Ban Nha của Langdon lỗ mỗ nhưng ông vẫn
nghe được đủ để giải mã cái tin không hay.
… el asesino ha huido…
Tên sát nhân đã trốn thoát.
… salida bloqueada…
Một lối ra đã bị bít lại.
Khi mấy từ “quân phục” được nói ra, người cận vệ đè trên Langdon giảm
bớt sức ép.
“¿Uniforme naval?” người đó hỏi lại đồng đội.
“
”
Câu trả lời rất xác quyết.
Quân phục hải quân, Langdon nhận ra. Winston nói đúng.
Người cận vệ buông Langdon và rời khỏi ông. “Lật người lại đi.”
Langdon đau đớn vặn ngửa người và chống khuỷu tay ngồi dậy. Đầu ông
quay mòng mòng còn ngực cảm thấy rất khó chịu.
“Chớ cử động,” người cận vệ nói.
Langdon không có ý định cử động, viên sĩ quan đứng phía trên nặng ngót
nghét cả tạ toàn cơ bắp rắn chắc và đã thể hiện rằng anh ta hết sức nghiêm
túc trong công việc của mình.
, người cận vệ hét vào bộ đàm, tiếp đến là yêu cầu giới
chức địa phương khẩn trương hỗ trợ và lập rào chắn quanh bảo tàng.
policía local… bloqueos de carretera…
Từ vị trí của mình trên sàn, Langdon nhìn thấy Ambra Vidal, vẫn đứng ở
khu vực gần bức tường bên. Nàng gượng đứng lên, nhưng loạng choạng, và
sụp phủ phục xuống.
Ai đó giúp cô ấy đi!
Nhưng người cận vệ lúc này đang hét vọng sang bên kia nhà vòm, có vẻ
như không nhắm cụ thể vào ai cả. “¡Luces! ¡Y cobertura de movil!” Tôi cần
ánh sáng và dịch vụ điện thoại!