chỉ càng khiến Ambra thêm quyết tâm xác định được bài thơ này và hoàn tất
những gì Edmond đã mở đầu.
“Tôi vẫn chưa tìm thấy bất kỳ cuốn thơ nào,” nàng nói với Langdon.
“Cho đến giờ, tất cả đều là khoa học.”
“Tôi nghĩ thi sĩ chúng ta đang tìm kiếm có thể là Friedrich Nietzsche,”
Langdon nói, kể với nàng về câu trích dẫn được đóng khung phía trên
giường của Edmond. “Câu trích dẫn đặc biệt ấy không có bốn mươi bảy mẫu
tự, nhưng chắc chắn nó ám chỉ rằng Edmond là một người hâm mộ
Nietzsche.”
“Winston,” Ambra nói. “Anh có thể tìm những tác phẩm thơ đã được thu
thập của Nietzsche và xác định xem có dòng thơ nào có đúng bốn mươi bảy
mẫu tự không?”
“Chắc chắn rồi,” Winston trả lời. “Bản gốc tiếng Đức hay bản dịch tiếng
Anh?”
Ambra im lặng, không dám chắc chắn.
“Bắt đầu từ tiếng Anh,” Langdon xen vào. “Edmond có kế hoạch nhập
dòng thơ này vào điện thoại của mình và bàn phím của cậu ấy không dễ cho
việc nhập bất kỳ chữ cái biến âm hay các chữ Eszett
Ambra gật đầu. Thật thông minh.
“Tôi có kết quả đây,” Winston tuyên bố gần như ngay tức thì. “Tôi tìm
được gần ba trăm bài thơ đã dịch, cho kết quả một trăm chín mươi hai dòng
thơ có đúng bốn mươi bảy mẫu tự.”
Langdon thở dài. “Nhiều thế ư?”
“Winston,” Ambra giục. “Edmond mô tả câu thơ anh ấy yêu thích như là
lời tiên tri… một dự đoán về tương lai… một điều đã thành hiện thực. Anh
có thấy bất kỳ câu nào phù họp với mô tả ấy không?”
“Tôi xin lỗi,” Winston đáp. “Tôi chẳng thấy gì ở đây ngụ ý một lời tiên tri
cả. Nói về mặt ngôn ngữ, các dòng thơ được xem xét đều trích từ các khổ
thơ dài hơn và có vẻ là một phần của những suy nghĩ. Tôi hiển thị cho các vị
nhé?”